| | NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN 5/4/2011, 8:13 pm | |
| Lời nói đầu Giáo trình nhập môn khoa học thư viện và thông tin (Introduction to Library and Information Science) được biên soạn theo chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo (có bổ sung và sửa đổi một số đề mục) nhằm mục đích trang bị những kiến thức đại cương về thư viện học và thông tin học cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng sư phạm. Giáo trình này giới thiệu cho sinh viên một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản của lí luận và thực tiễn hoạt động thư viện và thông tin tư liệu. Sinh viên nắm được đặc điểm của sách và các vật mang tin, nhận thức sâu sắc sách - là tri thức, là công cụ lao động, là phương tiện giáo dục chính trị tư tưởng, hiểu rõ vai trò tác dụng của sách trong đời sống xã hội. Cung cấp cho sinh viên phương pháp mang tính kế thừa truyền thống và tiếp cận với công nghệ thông tin mới để thu thập các nguồn tin, xử lí phân tích tin, sắp xếp, tra tìm, khai thác, sử dụng tài liệu để nâng cao hiệu quả, chất lượng học tập và nghiên cứu khoa học. Học xong chương trình nhập môn khoa học thư viện và thông tin sinh viên biết xây dựng mục lục tài liệu tham khảo trong khoá luận, đồ án hoặc luận văn tốt nghiệp và các công trình nghiên cứu. Đồng thời biết sử dụng phương pháp học tập mới - tự học, tự nghiên cứu gắn liền với sách với thư viện và tư liệu thông tin trong quá trình được đào tạo và tự đào tạo. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 3 PHÂN CÔNG BIÊN SOẠN Chương I: Sách và các vật liệu mang tin PGS, TS PHAN VĂN Chương II: Cơ sở thư viện học và Thông tin học PGS, TS PHAN VĂN Chương III: Bộ máy tra cứu THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG PHÂN CÔNG BIÊN SOẠN PGS. TS. Phan Văn THS. Nguyễn Huy Chương NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 4 Mục lục Lời nói đầu............................................................................2 Phân công biên soạn............................................................. 3 Mục lục chương I...................................................................5 Chương I: Sách và vật liệu mang tin....................................... 7 I.1. Khái niệm về sách...........................................................7 I.2. Vai trò tác dụng của sách trong đời sống xã hội...............10 I.3. Các vật liệu mang tin.....................................................31 Câu hỏi ôn tập chương I...................................................... 40 Mục lục chương II................................................................41 Chương II: Cơ sở thư viện học và thông tin học..................... 43 II.1. Cơ sở thư viện học........................................................43 II.2. Thông tin học...............................................................90 Câu hỏi ôn tập chương II....................................................125 Mục lục chương III.............................................................126 Chương III: Bộ máy tra cứu.................................................128 III.1. Bộ máy tra cứu truyền thống.......................................128 III.2. Bộ máy tra cứu hiện đại............................................. 153 Câu hỏi ôn tập chương III...................................................164 Tài liệu tham khảo.............................................................165 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 5 CHƯƠNG I: SÁCH VÀ CÁC VẬT LIỆU MANG TIN............... 7 I.1 KHÁI NIỆM VỀ SÁCH.....................................................7 I.1.1 Khái niệm về sách trên cơ sở vật liệu ghi chép............. 7 I.1.2 Khái niệm sách dựa vào văn tự, chữ viết...................... 8 I.1.3 Theo quan điểm của Lưu Quốc Quân Trung Quốc......... 8 I.1.4 Quá trình nghiên cứu phân tích và tổng hợp ................ 8 I.1.5 Các loại hình sách......................................................10 I.2 VAI TRÒ TÁC DỤNG CỦA SÁCH TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI...............................................................................10 I.2.1 Các chức năng của sách..............................................12 I.2.1.1 Chức năng thông tin.................................................12 I.2.1.2 Chức năng hướng dẫn học tập...................................12 I.2.1.3 Chức năng kích thích hứng thú đọc sách...................12 I.2.1.4 Chức năng kinh doanh của sách................................13 1.2.2 Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưỏng Hồ Chí Minh bàn về vai trò và tác dụng của sách báo................................................14 I.2.2.1 Các Mác với sách báo...............................................14 I.2.2.2 V.I. Lê nin với sách báo............................................16 I.2.2.3 Hồ Chí Minh với sách báo........................................17 ChươngM I ucï lucï NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 6 I.2.3 Các nhà hoạt động chính trị, khoa học, văn học nghệ thuật bàn về tác dụng của sách báo......................................22 I.2.4 Đảng cộng sản Việt Nam bàn về tác dụng của sách báo.24 I.2.5 Vai trò tác dụng của sách báo đối với thanh niên..........26 I.2.6 Sách là công cụ lao động và là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén...............................................................................27 I.2.6.1 Sách là công cụ lao động..........................................27 I.2.6.2 Sách là vũ khí đấu tranh giai cấp..............................29 I.3 CÁC VẬT LIỆU MANG TIN............................................31 I.3.1 Các vật liệu mang tin thô sơ từ thời cổ đại, trung đại.....31 I.3.1.1 Đất sét nung.............................................................31 I.3.1.2 Papirut.....................................................................32 I.3.1.3 Sách bằng da............................................................32 I.3.1.4 Sách bằng xương thú mai rùa.....................................32 I.3.1.5 Sách bằng đồng........................................................33 I.3.1.6 Sách bằng đá............................................................33 I.3.1.7 Sách bằng tre...........................................................34 I.3.1.8 Sách bằng gỗ............................................................35 I.3.1.9 Sách bằng lụa...........................................................35 I.3.1.10 Giấy......................................................................36 I.3.2 Các vật tin từ khi phát minh ra máy in cho đến nay......36 I.3.2.1 In ấn (Print) sách, báo, tạp chí..................................36 I.3.2.2 Không in ấn (Non -print)...........................................38 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I.............................................40 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 7 CHƯƠNG I SÁCH VÀ CÁC VẬT LIỆU MANG TIN Sách - là một trong những nguồn lực công nghệ thông tin cực kỳ quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần học tập kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến mà nhân loại đã sáng tạo ra, phải tiếp thu “Tổng số tri thức” mà loài người đã tích lũy được từ cổ đại cho đến hiện đại. Sách là trí tuệ, là kinh tế. là chính trị, là khoa học, là sức mạnh giáo dục con người nắm vững quá khứ, hiểu biết hiện tại, dự báo tương lai. Chúng ta cần vũ trang cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng phương pháp học tập mới gắn liền với sách, với thư viện, phương pháp khai thác sử dụng sách để nghiên cứu, nâng cao hiệu quả, chất lượng học tập trong quá trình đào tạo. Trong chương thứ nhất này chúng tôi sẽ trình ba ý: Khái niệm về sách, vai trò, tác dụng sách trong đời sống xã hội, các vật liệu mang tin để chuyển tải thông tin đến với bạn đọc, với người dùng tin. I.1 KHÁI NIỆM VỀ SÁCH Trong quá trình nghiên cứu lý luận sách, nhiều nhà khoa học đã nêu lên các khái niệm khác nhau về sách, chúng tôi xin khái quát mấy khái niệm sau: I.1.1 Khái niệm về sách trên cơ sở vật liệu ghi chép Tiếng La Tinh sách là “Liber” xuất phát từ “Thớ vỏ cây”. Người Anh gọi sách là “Book” trên cơ sở từ gỗ dùng để chế ra giấy. Người Đức dùng từ gỗ “Buk” để gọi sách. gười Pháp dùng từ “Livre” trên cơ sở từ thớ vỏ cây trong gốc La tinh “Liber”. Người Nga gọi sách là “Kniga” nghĩa là rễ cây. Người Trung Quốc gọi sách là “Kinh” có nghĩa là “Sợi chỉ NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 8 vải” là nguyên liệu chế ra giấy. Từ đó dẫn đến khái niệm: Sách là những trang giấy ghi lại những tri thức của nhân loại,... giấy được coi là đặc trưng cơ bản của sách. I.1.2 Khái niệm sách dựa vào văn tự, chữ viết Sách - là văn tự (Xuất phát từ chữ cổ Hy Lạp có nghĩa là chữ viết, văn tự, thư tín...) do ấn loát hoặc chép tay với số lượng trang nhất định hợp thành. Thư tịch là biểu hiện nền văn minh tiến bộ và vĩ đại nhất của loài người, là vũ khí đấu tranh chính trị mạnh mẽ, là nhân tố có hiệu quả để nắm chắc toàn bộ tri thức của nhân loại đã tích lũy được. (Trích Đại bách khoa toàn thư Liên Xô). I.1.3 Theo quan điểm của Lưu Quốc Quân Trung Quốc Khái niệm về sách: “Sách là những tri thức được ghi lại nhờ có văn tự và hình vẽ”...Kết hợp nội dung và hình thức sách nhằm mục đích truyền bá tri thức từ thế hệ này qua thế hệ khác trong các thời kỳ lịch sử của mỗi dân tộc1 I.1.4 Quá trình nghiên cứu phân tích và tổng hợp chúng ta có thể rút ra kết luận đầy đủ hơn, khoa học hơn Khái niệm về sách: Sách _ đây là sản phẩm đặc biệt phản ánh văn hóa vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Như thế nào là sản phẩm văn hóa vật chất? Sách biểu hiện ở bản thân nó là những bản chép tay (Bản thảo) hoặc sách in, được trình bày dưới hình thức nhiều tờ rời đóng lại thành quyển (tập), trong đó được ghi chép bằng chính văn hoặc minh họa bằng đồ hình. Sản phẩm văn hóa vật chất để cấu thành sách bao gồm: văn tự, chữ viết, vật liệu ghi chép từ thô sơ đến hiện đại như: đất sét nung, xương thú, mai rùa, da, tre, gỗ lụa, giấy, băng từ, đĩa từ, đĩa quang học..., những phương tiện ấn loát như: mực in, chữ in, máy in, chế bản điện 1 Trích: Sơ giản lịch sử sách Trung quốc của Lưu Quốc Quân. Bắc kinh, 1958 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 9 tử, hình vẽ, đóng sách, bìa sách, khổ sách, khối lượng trang... Như thế nào là đời sống tinh thần của xã hội? Trong sách trình bày các tác phẩm có nội dung về chính trị, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tư duy, khoa học kỹ thuật và công nghệ, văn hóa, nghệ thuật... từ thực tế sinh động đúc kết thành lý luận, thành những quy luật phát triển tự nhiên và xã hội. Sách là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén, là công cụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, lao động và phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, là phương tiện thúc đẩy sự tiến bộ cuộc sống tinh thần của loài người. Không có sách nhân loại không thể phát triển từ thời đại đồ đá cho đến nền văn minh công nghệ thông tin toàn cầu, thời đại hạt nhân nguyên tử. Gôrơki M. nhà văn hào vô sản Nga đã viết: “Sách là một kỳ công phức tạp và vĩ đại nhất trong tất cả các kỳ công tuyệt diệu mà loài người sáng tạo ra trên con đường tiến tới hạnh phúc và tương lai tươi sáng”2 Nội dung và hình thức của sách: Sách đã trải qua con đường dài phát triển. Hình thức của sách đã làm thay đổi nội dung và mục đích của nó. Sách là loại sản phẩm công nghiệp có tính chất nghệ thuật, hình thức trình bày trang trí mỹ thuật do con người tạo ra. Xét về hình thức trình bày của sách ta có thể hiểu được trình độ văn minh của loài người qua các thời đại. Mặt khác, nội dung của sách diễn đạt trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, nhận thức của con người đối với thế giới xung quanh, phản ánh quy luật tự nhiên và xã hội có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người. Do đó, sách có hai phương diện: hình thức và nội dung. Nội dung của sách có tác dụng to lớn đối với con người, nhưng nội dung đó phải dựa vào hình thức vật chất mới thể hiện được. Vì vậy nội dung và hình thức của sách là một thể thống nhất luôn luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, xã hội qua các thời đại của các dân tộc trên thế giới. 2 Trích: Lời giới thiệu mục lục của nhà xuất bản Văn học thế giới.- Petecbua, 1959.- tr.5 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 10 I.1.5 Các loại hình sách Sách có nhiều loại hình khác nhau. Khi phân loại sách, người ta thường dựa theo các yêu cầu và mục đích khác nhau để xác định. Khi xét về phương diện chất liệu và kỹ thuật để làm ra sách, người ta chia sách thành các loại: Sách làm bằng đất nung, sách chép tay, sách in trên giấy (In khắc gỗ, in Litô, in ốp xét, in tipô, và in bằng chế bản điện tử...) Khi xét về phương diện nội dung, người ta chia sách theo các lĩnh vực tri thức khoa học khác nhau: Sách chính trị, sách kinh tế, sách khoa học, sách văn học, sách kỹ thuật, sách nghệ thuật.... Khi xét về phương diện tác dụng và giá trị sử dụng, người ta chia sách theo các loại: sách giáo khoa, sách hướng dẫn, từ điển, sách sổ tay nghề nghiệp.... Khi xét về phương diện phục vụ cho các đối tượng trong xã hội, người ta chia sách theo các loại: sách thiếu nhi, sách mẫu giáo, sách phổ thông, sách khảo cứu... Khi xét về cấu trúc của sách, người ta chia sách theo các loại: sách bìa cứng, sách bìa mềm, sách đóng chỉ, sách đóng kẹp, sách gấp nếp.... Hiện nay, nhiều nước tiến bộ trên thế giới đã lập “Viện sách” để nghiên cứu sự phát sinh và phát triển sách. Trong thực tiễn đã hình thành ngành nghiên cứu lý luận về sách trong xã hội. I.2 VAI TRÒ TÁC DỤNG CỦA SÁCH TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Sách là nguồn tri thức phong phú nhất của loài người, là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy sự tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Những phát minh vĩ đại, những tư tưởng khoa học thiên tài, những thành tựu công nghệ tin học nổi PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 11 tiếng tìm ra được là nhờ có sách. Sách có tác dụng giúp cho loài người ghi lại những tri thức, những kinh nghiệm đã tích lũy được qua hàng trăm thế kỷ trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nó. Sách là sản phẩm đặc biệt trong xã hội có chức năng giáo dục con người phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể lực, thẩm mỹ, tâm hồn, tình cảm, lối sống cao đẹp, có bản lĩnh ngang tầm với thời đại, với sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 12 I.2.1 Các chức năng của sách Mỗi loại sách đều có những đặc thù. Tuy nhiên, đã là sách thì dù loại nào, đều có những điểm chung nhất về chức năng. Đó là những chức năng chủ yếu sau đây: I.2.1.1 Chức năng thông tin: Đây là chức năng thông báo nội dung tri thức, giá trị tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của sách. Trong thời đại ngày nay có những nguồn thông tin vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng sách là một trong những nguồn thông tin cơ bản nhất, thực hiện bằng hai phương pháp chủ yếu: chữ viết (Kênh chữ) và hình ảnh, sơ đồ, đồ hình, đồ thị, bản vẽ...(Kênh hình). I.2.1.2 Chức năng hướng dẫn học tập: Chức năng này đòi hỏi sách phải góp phần phát triển tư duy, nâng cao tính độc lập, sáng tạo, bồi dưỡng kỹ năng và năng khiếu tự học, tự rèn luyện, phương pháp đọc sách trong quá trình được đào tạo và tự đào tạo. I.2.1.3 Chức năng kích thích hứng thú đọc sách: Ngoài hai chức năng thông tin và hướng dẫn học tập, sách còn có chức năng kích thích lòng say mê đọc sách, yêu thích sách và tạo niềm vui, niềm hạnh phúc trong lao động học tập, khám phá và sáng tạo trong quá trình đọc sách, khắc phục tình trạng lười học, lười đọc. Thực hiện chức năng này bằng phương pháp sách phải trình bày hết sức khoa học, bằng hình ảnh hấp dẫn, màu sắc hài hòa, ngôn ngữ gợi cảm, trong sáng, dễ hiểu... Ba chức năng trên của sách không phải là ba vấn đề tách biệt, mà có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Nếu lượng thông tin phong phú, chính xác đồng thời lại có phương pháp hướng dẫn tự học tốt, thì niềm say mê đọc, học tập càng được kích thích thêm. Mặt khác, niềm say mê học tập được hướng dẫn PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 13 bằng một phương pháp tốt là tiền đề để phát huy khả năng tiếp thu và vận dụng sáng tạo lượng thông tin trong sách vào thực tiễn đời sống xã hội có hiệu quả cao nhất I.2.1.4 Chức năng kinh doanh của sách: Ngoài ba chức năng trên đây sách còn là sản phẩm hàng hóa, vì vậy nó còn có chức năng kinh doanh. Trong điều kiện cơ chế thị trường, sách còn là một loại hàng hóa đặc biệt bởi vì nó chứa đựng giá trị tinh thần và hàm lượng trí tuệ cao. Trong quá trình làm phong phú về hình thức và thống nhất về nội dung của việc tái sản xuất mở rộng, sách giữ vai trò quan trọng. Các Mác đã viết: “Sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng tự chúng tạo thành những bộ phận nguyên vẹn nhưng khác nhau trong sự thống nhất”3 . Lưu thông là sự liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng, nó trực tiếp thực hiện việc trao đổi sách thành tiền, đảm bảo khả năng vật chất cho tái sản xuất mở rộng sách, nâng cao chất lượng sách. Điều quan trọng đặc biệt là có sự khác nhau về nguyên tắc lưu thông sách và các nghề buôn bán khác. Cũng có sự khác nhau giữa 3 Trích: Các Mác toàn tập. T.12.- H.: Sự thật, 1962.- tr.361 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 14 sản xuất sách với tất cả các kiểu sản xuất khác. Sự khác nhau đó là ở đối tượng hoạt động của chúng. Sách là một loại hàng hóa đặc biệt bởi vì giá trị và giá trị sử dụng của sách thường không thống nhất. Giá trị của sách chủ yếu do nội dung của sách quyết định. Trong chức năng kinh doanh sách phải thực hiện hai yếu tố cơ bản: kinh tế và xã hội trong đó cần coi trọng yếu tố xã hội hơn. Một quyển sách in ra là một phương tiện để phổ biến thông tin khoa học, một công cụ đấu tranh chính trị và phát triển văn hóa vật chất tinh thần... Tính lợi ích xã hội của sách đuợc xác định như vậy, nên ý nghĩa của sách trưóc tiên là ở nội dung tư tưỏng của nó. Lưu thông sách chính là đáp ứng các yêu cầu của xã hội, của cuộc đấu tranh cách mạng thông qua nội dung của sách. Khi bàn đến chức năng kinh doanh của sách có nghĩa là nói đến giá trị sử dụng, tính lợi ích xã hội của sách trong phạm vi trao đổi và lưu thông hàng hóa. 1.2.2 Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưỏng Hồ Chí Minh bàn về vai trò và tác dụng của sách báo I.2.2.1 Các Mác với sách báo: Các Mác con người vĩ đại, có bộ óc tiên tiến nhất của loài người đã nói một cách tự hào về vai trò của sách trong cuộc sống: C. Mác đã trả lời câu hỏi: Công việc yêu thích và say mê nhất của người là gì? - Đọc sách, tìm tòi tri thức trong PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 15 nhiều quyển sách... Từ năm 1847, C. Mác đã thu thập, ghi chép, tóm tắt các tác phẩm của 17 tác giả, gồm 24 quyển vở, tổng cộng hơn 440 tờ, mỗi tờ bằng 32 trang để viết bộ “Tư bản”. Bộ “Tư bản” gồm 4 tập Tập I: Quá trình sản xuất tư bản. Tập II: Quá trình lưu thông tư bản. Tập III: Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa Tập IV: Các học thuyết về giá trị thặng dư. Sau này trong lời tựa F. Anghen có viết: Chuẩn bị tài liệu để viết bộ tư bản là vô số ghi chép của Mác với những trích lục thuộc về thời bấy giờ. Bộ “Tư bản” được đánh giá cao - Là đài kỷ niệm hùng vĩ, thiên tài, sáng tạo của Mác. Các Mác đã gắn liền sách với lao động sáng tạo của mình, sách là một phương tiện trong cuộc đấu tranh giải phóng người lao động khỏi ách tư bản, đấu tranh cho thắng lợi của cách mạng. Các Mác nói: “Sách là nô lệ của tôi, nó phải phục vụ tôi theo ý muốn”4 Suốt đời hoạt động của Các Mác và F. Anghen gắn bó chặt chẽ với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với sách báo. Chính trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế, kết hợp với tính kế thừa có phê phán chọn lọc, thu nhận tinh hoa tri thức của nhân loại đã tích lũy được qua các thời đại: Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội Pháp mà Các Mác và Anghen đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Vũ khí lý luận khoa học nhất, cách mạng nhất của giai cấp vô sản thế giới. Vào năm 1948 đã cho xuất bản quyển “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” tác phẩm đầu tiên của chủ nghĩa Cộng sản khoa học, trong tác phẩm này Các Mác và Anghen đã phân tích, chứng minh về mọi mặt học thuyết cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng. Mở đầu của quyển sách là lời kêu gọi “Vô sản toàn thế giới hãy liên hiệp lại” - Đây là tiếng kèn xung trận, đang động viên hàng triệu nhân dân lao động trên toàn thế giới phất cao 4 P.Laphat.- Hồi ức về Mác .-M.: Kniga, 1967.- tr.7 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 16 ngọn cờ đấu tranh chống giai cấp tư sản bóc lột trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, vì giải phóng dân tộc. V.I. Lê nin đánh giá cao tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”. Người nói đây là tập sách mỏng nhưng có giá trị như bộ bách khoa toàn thư hoàn chỉnh gồm nhiều tập. I.2.2.2 V.I. Lê nin với sách báo: V.I. Lê nin đã kế thừa và phát triển một cách xuất sắc tư tưởng cách mạng của Mác và Enghen trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển đến tột cùng thành chủ nghĩa đế quốc. Đối với Lê nin sách báo thực sự là những phương tiện quan trọng giúp ngưới hoàn thiện học thuyết của Mác, hướng dẫn, giáo dục, chỉ đạo giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản thế giới thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là tấn công quyết liệt vào giai cấp tư sản và những kẻ chống lại hoặc phản bội chủ nghĩa Mác. Ngay từ thời kỳ thơ ấu, V.I. Lê nin đã say mê đọc sách báo, gắn với thư viện, trong suốt những năm tháng hoạt động cách mạng gian khổ, lúc ở trong nước, lúc ở nước ngoài, khi bị tù đày... ở đâu người cũng giành thời gian tối đa để nghiên cứu sách báo. V.I. Lê nin viết tác phẩm “Sự phát triển chủ nghĩa tư bản Nga”5, người đã sử dụng 583 cuốn sách bằng các thứ tiếng Nga, Anh, Pháp, Đức. Năm 1908 V.I. Lê nin quyết định hoàn thành cuốn “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm”, người đã đọc hơn 200 tài liệu gốc 5 N. Krupxkaia.- Thư viện và sách.-H.: 1963, tr.56 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 17 bằng tiếng Anh, Pháp, Đức... Ngoài ra, người còn nghiên cứu một số công trình của các nhà vật lý và triết học Anh thế kỷ 19, V.I. Lê nin phải đi từ Geneve đến Luân đôn, viện bảo tàng Anh để tham khảo tài liệu. V.I. Lê nin viết tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” đã tham khảo 603 cuốn sách và 253 bài báo. Trong công cuộc xây dựng CNXH V.I. Lê nin luôn luôn nhấn mạnh vai trò cực kỳ quan trọng của sách báo. Người nói: “Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội”. Trong thời đại ngày nay, Lê nin toàn tập, gồm 55 tập, xuất bản lần thứ năm có sức hấp dẫn phi thường, đã vạch ra con đường đưa nhân dân lao động toàn thế giới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hàng trăm triệu người trên hành tinh của chúng ta đặc biêt chú ý đến tuyển tập và toàn tập của V.I. Lê nin, những lời tuyên bố, những học thuyết của người là nguồn sức mạnh vô tận trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình của các dân tộc trên toàn thế giới. Theo thống kê của Viện sách Nga đã có 48 nước trên thế giới xuất bản các tác phẩm của Lê nin gồm 4070 lần , trên 51 thứ tiếng, gồm có 408,8 triệu bản6. Những tác phẩm của V.I. Lê nin là những tư tưởng bất diệt và sự nghiệp vĩ đại của người để lại cho nhân dân lao động trên toàn thế giới, nguồn cổ vũ, động viên, vận dụng sáng tạo học thuyết của người vào hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. I.2.2.3 Hồ Chí Minh với sách báo: Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sách báo là phương tiện quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đã thực hiện phương châm: học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau, học ở dân. Thời thơ ấu với cái tên Nguyễn Sinh Cung người đã ham mê đọc sách báo và đọc những sách như: Tứ thư, Ngũ kinh, ấu học ngữ ngôn thư, Sơ học văn tân... 6 V.I Lenin và xuất bản .- M.: 1984.- tr.16 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 18 Sách báo là công cụ học tập của Nguyễn Tất Thành ở trường quốc học Huế. Nguyễn Tất Thành đã thực hiện đúng lời dạy của cha Nguyễn Sinh Huy: “Các con phải coi việc đọc sách là đáng quý, mỗi ngày phải đọc được 10 trang sách, phải coi sách là nguồn báu vô tận của mắt”. Người đã đọc nhiều sách lịch sử cổ Trung Quốc, sách Tam Quốc Chí, Tây du ký..., đọc sách tiếng Pháp: “Những người cùng khổ” của nhà văn hào Pháp Vichto Huy gô, các tác phẩm của triết gia Pháp như: Rutxô (Rousseau), Môngtetkiơ (Montesquieu), Vonte (Voltaire) và Côngđoácxe (Condorcet)... nhằm làm quen với nền văn minh Pháp, tìm hiểu thực chất cái gọi là: tự do, bình đẳng, bác ái, đấu tranh cho quyền cơ bản của con người - Là nhân quyền. Năm 1908, Thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã tổ chức tủ sách dùng chung cho học sinh ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) - Một trường tư thục tiến bộ lúc bấy giờ ở miền Trung. ở đây, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã rèn luyện cho học sinh tinh thần ham mê đọc sách, mở mang trí tuệ và chính người đã nêu tấm gương sáng về tinh thần ham học, ham hiểu biết, đọc nhiều thơ văn yêu nước của cụ Phan Bội Châu, Đông kinh nghĩa thục và quyết định sang Phương Tây tìm đường cứu nước. Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã từ bến nhà Rồng (Sài gòn) sang Pháp và lấy tên là Ba. Cuộc hành trình của anh Ba đầy sóng gió khắp năm châu bốn bể, lăn lộn trong phong trào công nhân nhiều nước như: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, An giê ri, Công gô... Năm 1917, trở lại Pari với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Người thuờng xuyên đọc sách ở thư viện Quốc gia Pháp. Sách báo thư viện đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc những hiểu biết phong phú, đa dạng, sâu sắc về những tinh hoa của nền văn minh nhân loại. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 19 Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo L’Humanite, từ sự kiện quan trọng này, người kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng rõ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi trong phòng một mình mà tôi nói to lên như đang nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta !”7 Nguyễn Ái Quốc có tài năng đặc biệt sử dụng sách báo trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, đã nhận thức sâu sắc nguyên lý không có lý luận cách mạng, không có phong trào cách mạng, năm 1922, Nguyễn Ái Quốc cho xuất bản tờ Le Paria (Người cùng khổ), mục đích giải phóng các dân tộc bị áp bức.8 Xuất bản mỗi kỳ 500 bản, người giành 200 bản gửi về nước. Việc xuất bản tờ báo Người cùng khổ là nhát búa giáng vào đầu bọn thực dân... Đó là luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức9 Khi viết quyển “Đường cách mệnh” Bác đã xác định rõ mục đích là: “Chỉ mong đồng bào xem rồi nghĩ lại, nghĩ rồi tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên, đoàn kết nhau mà làm cách mạng”10 Viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Người đã nghiên cứu sử dụng 256 cuốn sách tham khảo khác nhau11. Giá trị của bản án... về lập trường, quan điểm, tư tưởng cách mạng giải phóng, vẫn ngời sáng như ánh mặt trời. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết bản án chế độ thực dân Pháp và cũng chính Người lãnh đạo dân tộc ta thi hành bản án chế độ thực dân. 7 Trích trong bài «Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê nin» trong quyển Hồ Chí Minh những sự kiện .-H.: TTLL, 1990.- 266 tr. 8 Lời chào mừng báo người cùng khổ ra số 1 ngày 1-4-1922. Trích: Báo Nhân dân, 1973, tháng 5 ngày 18 9 Trần Dân Tiên.- Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. - H.: ST, 1975, tr.45 10 Nguyễn Ái Quốc.- Đường cách mệnh.- H.: Sự thật, 1982, tr.26 11 Lê Khánh Soa.- Tạp chí thanh niên, 1976, tháng 3, tr.30 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 20 Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945 Chủ tich Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Chính Phủ lâm thời cách mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký sắc lệnh 13/CP tập trung hóa sự nghiệp thư viện và sách báo ở Việt Nam dười sự lãnh đạo của nhà nước. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên chuyển toàn bộ thư viện, tủ sách của thực dân Pháp thành tài sản chung của nhân dân lao động cả nước. Người đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của Lênin: Muốn xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa xã hội trong một nước thì nhân dân nước đó phải biết đọc, biết viết và biết sử dụng sách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm đặc biệt quan trọng trong lời kêu gọi chống nạn thất học: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập, một trong những nhiệm vụ... là nâng cao dân trí. Nhân dân Việt Nam muốn giữ vững nền độc lập. Muốn cho dân giàu nước mạnh. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”12 Trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người mới xã hội chủ nghĩa”13. Đó là con người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Việc gì cũng phải công minh chính trực, không vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người, thì phải dùng người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, họ hàng, bầu bạn, mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị, mà dìm người có tài năng hơn mình. Phải biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, phải thấm nhuần tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, được tin đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam 7.000 tấn sách báo, Bác nói: “Ngoài kinh tế, quân sự, chính trị, đế quốc Mỹ đang âm mưu xâm lược miền Nam bằng văn hóa. Bảy nghìn tấn sách, báo Mỹ sẽ có 12 Hồ Chí Minh.- Lời kêu gọi chống nạn thất học.- Văn kiện Đảng 1945-1954, H.: NXB Sự thật, 1978, tr.14 13 Hồ Chí Minh.- Con người xã hội chủ nghĩa.-H.: NXB Sự thật, 1961, tr.6 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 21 tác hại như 7.000 tấn thuốc độc. Nó có thể làm hư hỏng cả một thế hệ thanh niên và nhi đồng ở miền Nam”14 Bọn xâm lược Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, đưa cuộc chiến tranh lan rộng ra cả nước, Bác Hồ đã viết lời kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Thực hiện lời dạy của Bác, nhân dân hai miền Nam, Bắc đã phát huy cao độ quyền làm chủ tập thể về chính trị, không tiếc xương máu bảo vệ đất nước thân yêu của mình. Đó là lối sống của hàng chục triệu người xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ, nhằm thẳng quân thù mà bắn, còn cái lai quần cũng đánh. Đó là lối sống tiếng hát át tiếng bom, tay búa tay súng, tay cày tay súng, tay bút tay súng. Cả một dân tộc quyết tâm đứng lên làm chủ đời mình, đất nước mình, đã đánh bại đế quốc Mỹ và giành thắng lợi vẻ vang có tính chất lịch sử và thời đại. Nói tóm lại, từ thời niên thiếu, cũng như quá trình hoạt động cách mạng gian khổ, khi ở trong nước, lúc ở ngoài, khi tự do, lúc bị tù đày ở bất đâu, trong hoàn cảnh nào Hồ Chí Minh vẫn giành thời gian đọc sách báo, tiếp xúc với thư viện, nắm vững tri thức của nhân loại, hiểu biết sâu tư tưởng phương Đông, phương Tây, đã kết hợp vận dụng một cách nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Người đã thành lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, của nhân dân bị áp bức và yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường trong phong trào cộng sản quốc tế, danh nhân văn hóa thế giới15. Như nhà thơ Xuân Thủy đã viết: “Một con người gồm: kim, cổ, tây, đông, Giàu quốc tế, đậm Việt Nam từng nét. Yêu dân tộc, yêu loài người tha thiết...”16 14 Nói chuyện Mỹ.-H.: NXB QĐND, 1972, tr.176 15 Cơ quan văn hóa, khoa học, giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận Hồ Chí Minh danh nhân văn hoá thế giới nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Người (1890-1990). 16 Xuân Thuỷ.- Tập thơ Bác ơi.-H.: NXB Văn hoá, 1964, tr.5 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 22 I.2.3 Các nhà hoạt động chính trị, khoa học, văn học nghệ thuật bàn về tác dụng của sách báo. Nhiều nhà hoạt động chính trị, khoa học, văn học, nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới đã đánh giá cao vai trò văn hóa, giáo dục của sách là món ăn tinh thần, sách là sách giáo khoa của cuộc đời, sách là người bạn, người thầy, người mẹ, họ đã so sánh sách là ánh sáng mặt trời, vì sách đã gắn liền cuộc đời hoạt động của họ, dẫn dắt họ đến tương lai tốt đẹp. Nhà bác học Xưôncốpxki đã nói: sự mơ ước của ông thời thơ ấu về sự giao lưu giữa các hành tinh, khi ông ta đọc tác phẩm của Rulia Vêna về chuyến bay đến chị Hằng Nga. Quả nhiên về sau ông đã trở thành nhà thiên văn học Nga nổi tiếng, nhà bác học thiên tài trong lĩnh vực nghiên cứu không gian vũ trụ. Páp lốp viện sĩ Viện Hàm lâm y học Liên Xô, đồng thời là nhà bác học vĩ đại của thế giới đã cống hiến trọn đời mình cho khoa học, khi mới lên 16 tuổi Páp lốp đã đọc nhiều quyển sách về sinh lý học. Rô manh Rô lanh - nhà văn, nhà cách mạng Pháp đã viết: Với quyển sách là vũ khí vật chất và tinh thần sáng ngời trong tay, chúng ta chiến đấu cho tự do, hạnh phúc của loài người. M.I. Calinin nhà giáo dục Nga đã khẳng định: “Sách báo tác dụng nâng cao trình độ văn hóa _ Khái niệm văn hóa rất rộng từ công việc rửa mặt cho đến đỉnh cao tột bậc của tư tưởng loài người”17. Văn hóa rất đa dạng, muôn màu muôn vẻ_ Lao động có văn hóa ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa của hành vi, của sinh hoạt. Văn hóa ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều về văn hóa trí nhớ và tư duy _ Đọc sách có ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa ngôn ngữ.18 Sách giúp cho con người hình thành thế giới quan khoa học, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nhất định, phát triển năng lực làm việc, tiếp thu những kinh nghiệm và phương pháp tiên tiến tổ chức lao động khoa học , rèn luyện bản thân, xây 17 M.I. Calinin .- Giáo dục cộng sản.- M.: NXB Thanh niên, 1947, tr.43 18 I.B. Tumakin. Những vỉa đất có vàng.- Odecxa: 1965, tr.22 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 23 dựng tính cách, tăng cường ý chí bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tinh thần yêu lao động, phát huy tư duy độc lập. Đánh giá sâu sắc và quán triệt ý nghĩa to lớn của sách báo trong lịch sử nền văn hóa nhân loại. M. Gooki đã viết: “Hai sức mạnh giúp đỡ có hiệu quả nhất trong việc giáo dục con người có văn hóa, đó là nghệ thuật và khoa học, và kết luận: cả hai sức mạnh này kết hợp với nhau đã thể hiện trong sách”19 N.A. Ma rô dôp đã viết: “Sách thật kỳ diệu, sách đã biến đổi thế giới, sách chứa đựng tri thức nhân loại, sách là cái loa truyền đi tư tưởng của loài người. Thế giới mà không có sách, thì đó là thế giới của những người đã khuất”20 A.I. Ghec xen, nhà văn, nhà cách mạng dân chủ Nga nổi tiếng đã nhận xét một cách sâu sắc về vai trò tác dụng của sách báo trong đời sống xã hội: “Sách - Đây là di sản tinh thần của thế hệ này truyền lại cho thế hệ khác, là lời khuyên của những người sắp qua đời cho thế hệ thanh niên sắp bước vào cuộc sống. tất cả cuộc sống loài người liên tục được phản ánh trong sách: Bộ lạc, con người, quốc gia, đều có thể mất đi, nhưng sách vẫn tồn tại mãi mãi. Sách đã phát triển cùng với xã hội loài người. Sách đã ghi lại toàn bộ các học thuyết, trí tuệ, tình cảm của nhân loại. Sách đã giúp chúng ta nắm vững kinh nghiệm lao động và chân lý mà loài người đã trải qua muôn vàn đau khổ, lắm khi phải đổ máu mới giành được. Sách là cương lĩnh của tương lai. Vì thế, chúng ta cần phải yêu quí sách”21
| |
| | | Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: Re: NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN 5/4/2011, 8:14 pm | |
| I.2.4 Đảng cộng sản Việt Nam bàn về tác dụng của sách báo Sách báo cách mạng là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén, là phương tiện truyền bá chủ nghĩa Mác Lê nin và đường lối chính sách của Đảng. Trong nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 bàn về tình hình hiện tại ở Đông dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nhấn mạnh vai trò, mục đích của công tác tuyên truyền cổ động, ra sách báo, truyền đơn, diễn thuyết...22. Nghị quyết này chứng tỏ ngay từ khi ra đời đã nhận thức đầy đủ vai trò của sách báo cách mạng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 1936 - 1939, ở khắp các địa phương trong toàn quốc, các tổ chức Đảng đã phát hành nhiều sách báo công khai, tổ chức các hiệu sách tiến bộ, các phòng đọc sách, các “bình dân thư xã”... đây là sách báo cách mạng trong cao trào vận động dân chủ, là thành công to lớn trên mặt trận tư tưởng và văn hóa. Công tác tuyên truyền sách báo cách mạng của Đảng đã góp phần xứng đáng trong việc động viên cổ vũ toàn Đảng, toàn dân anh dũng tiến lên trong cao trào kháng Nhật, cứu nước và tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trong cả nước. 19-8- 1945, cách mạng tháng 8 thành công đã mở ra cho dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập - tự do - chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ vĩ đại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), bắt đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sách báo phải góp phần xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sách là nguồn sống, sách là một trường Đảng”... các Đảng bộ đã trực tiếp nắm công tác cung cấp sách phục vụ đời sống tinh thần cho quần chúng. Mỗi hình thức sinh động cần được tạo ra để gây một nguồn hứng thú đọc sách báo của Đảng. Với ý thức và sức mạnh của đông đảo đảng viên, chúng ta nhất định sẽ thắng được tư tưởng coi thường đọc sách báo và ngại đọc sách, nhất định làm cho cán bộ Đảng 22 Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 1.- H.: Ban NCLSĐ, 1977, tr.91 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 25 viên và nhân dân ta càng thấy rõ tầm quan trọng của sách báo, coi sách là nguồn sống, là một trường Đảng”23 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đã nêu rõ: “Ra sức cải tiến việc phát hành và tổ chức đọc sách báo,... làm cho sách báo được thực sự trở thành món ăn tinh thần của đông đảo quần chúng”24 “ Cần xuất bản nhiều sách giáo khoa, sách phổ thông, đồng thời tăng cường xuất bản những sách kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, mở rộng và phát triển phong trào quần chúng đọc sách báo.” Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã nêu rõ:” Xây dựng thói quen đọc sách báo, làm cho việc đọc sách báo trở thành nhu cầu không thể thiếu được của mỗi người dưới chế độ mới”25 Nghị quyết hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ngày 14-1-1993 đã nêu rõ nhiệm vụ của văn hóa nói chung và công tác sách báo nói riêng là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng một phần nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực sự nghiệp đổi mới, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Chỉnh đốn công tác xuất bản, in và phát hành. Phổ biến rộng rãi những tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Cấm sản xuất, xuất bản và phổ biến những tác phẩm, phim ảnh, băng hình độc hại và đồi trụy. Tăng cường công tác phát hành sách báo để chuyển tải được tốt và nhanh các giá trị văn hóa, văn nghệ. Khắc phục và phát triển hệ thống thư viện từ trung ương đến cơ sở. Đáp ứng được yêu cầu phát triển trí tuệ của nhân dân, yêu cầu nghiên cứu khoa học và văn hóa, nghệ thuật.26 23 Trích: Xã luận báo nhân dân, số 2097, ngày 13-12-1959 24 Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ III. Tập 3.-H.: ST, 1961, tr.76, 106 25 Trích: Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV.-H.: ST, 1977, tr.125 26 Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ IV khoá VII.-H.: ST, 1993. tr.51-57 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 26 I.2.5 Vai trò tác dụng của sách báo đối với thanh niên Đường lối đổi mới của Đảng với những thành tựu đã đạt được đang tạo ra môi trường mới để thanh niên phát triển tài năng, cống hiến cho xã hộitừng bước cải thiện đời sống, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Như Bác Hồ đã dạy:“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăn năm trồng người”, do đó vấn đề thanh niên phải được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Nhiều sách khoa học, kỹ thuật và công nghệ tổ chức quản lý đã giúp thanh niên phát huy tài năng trẻ, nhiều tấm gương tiêu biểu trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, trong các mũi nhọn của công nghệ hiện đại: công nghệ thông tin, công nghệ điện tử, vật liệu mới.... Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đã có tác dụng trong công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, động viên họ vươn lên hàng đầu trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, bảo vệ chủ quyền và an ninh đất nước, trong công tác nghiên cứu khoa học, học tập và rèn luyện tu dưỡng, trong hoạt động văn hóa nghệ thuật và thể thao. Vì các tác phẩm văn học nghệ thuật đã kết hợp được tính tư tưởng, tính chiến đấu sâu sắc, với những hình ảnh nghệ thuật cao, hấp dẫn như: “Người mẹ cầm súng“, Hòn đất“, “Bất khuất“, “Sống như anh”,... nội dung các tác phẩm này đã nêu lên được tư tưởng, tình cảm, quyết tâm, ý chí sắt đá của dân tộc ta trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, sự hy sinh cao cả vì lợi ích của tổ quốc. Tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy” của Octơrốpxki nói về chiến công vĩ đại của chiến sĩ trẻ vì cuộc sống mới. Tác phẩm có sức hấp dẫn và truyền cảm, có tác dụng giáo dục thế hệ của chúng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay. Sách văn học nghệ thuật đã làm phong phú thế giới tinh thần của thanh niên, sách đã dạy cho họ tính kế thừa tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành quả của Cách mạng, có tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước, toàn tâm toàn ý đem hết tài PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 27 năng sức lực đưa đất nước vượt qua nghèo nàn lạc hậu. Đặc biệt sách đã chỉ cho họ sống, lao động, học tập, làm việc theo chủ nghĩa xã hội, theo gương Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc ta. I.2.6 Sách là công cụ lao động và là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén I.2.6.1 Sách là công cụ lao động: Ở nước ta, sách đã trở thành công cụ lao động, có tác dụng đi vào cuộc sống, sinh hoạt, công tác của cán bộ khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, cán bộ giảng dạy, sinh viên, học sinh, bộ đội, công nhân, nông dân... nhằm trang bị cho họ những tri thức, những thành tựu mới trong khoa học và công nghệ, những kinh nghiệm tiên tiến trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, trên các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả, chất lượng và năng sất lao động. Sách là công cụ lao động để cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội và giáo dục con người phát triển toàn diện, đồng thời sách chính là sản phẩm là thành quả lao động của con người sáng tạo ra, là tri thức mà nhân loại đã tích lũy được. Một xã hội muốn tồn tại thì xã hội đó phải có một nền sản xuất lớn hơn trước về quy mô và trình độ sản xuất. Bởi vậy, không thể nào không tiếp thu những thành quả và kinh nghiệm của hình thái xã hội trước, từ đó sáng tạo hơn lên. Sách báo ra đời chính là vì mục đích sản xuất đó. Bà N. Crupxkai đã viết: Sách là công cụ mạnh mẽ dùng để giao lưu, đấu tranh. Sách võ trang kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đấu tranh của nhân loại cho con người, mở rộng tầm hiểu biết của con người, giúp con người thu nhận kiến thức để bắt các thế lực thiên nhiên phục vụ mình. Muốn tái sản xuất mở rộng, muốn tăng năng suất lao động thì không có cách nào khác là phải dùng sách báo đưa NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 28 khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, không ngừng đổi mới công nghệ máy móc. Sách thực sự trở thành công cụ lao động. Nhờ sử dụng sách báo, con người có thể thay đổi quy trình lao động, phương pháp lao động, quy mô sản xuất, bắt thiên nhiên phục vụ con người. Nhờ có sách con người nắm được phương pháp mới, công nghệ mới với cốt lõi là vi điện tử, quang học, sinh học, vật liệu cao cấp, thể hiện trong những thiết bị nhỏ, nhẹ, tác động nhanh, tiêu tốn rất ít năng lượng. Ở đây nguồn lực chủ yếu là tri thức; kể cả khả năng sáng tạo chứa đựng trong sách. Sách là công cụ lao động mạnh mẽ nhất, hiệu quả nhất. Trước đây, gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, phương thức lao động là thủ công, công cụ lao động thường là các vật cụ thể, đơn giản. tiến lên sản xuất lớn, trong đó khoa học, kỹ thuật, công nghệ tham gia trực tiếp để tạo ra của cải vật chất, thì khái niệm “Công cụ lao động” cần phải được đổi mới. Để thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước phải sử dụng tối đa sách báo - là nguồn lực thông tin quan trọng, mà thông tin là tiềm lực của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Phải coi sách báo là công cụ lao động quan trọng, chúng ta phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ cần nắm vững tri thức trong sách và ứng dụng vào thực tiễn: “Vấn đề có ý nghĩa quyết định là cán bộ, đảng viên phải hiểu rõ yêu cầu mới của cách mạng, là phát triển sản xuất, hiễỷu rõ nâng cao năng suất lao động là nguồn của cải to lớn nhất. Do đó cần phải tổ chức bộ máy sản xuất mới, tích cực học tập quản lý kinh tế, cải tiến kỹ thuật. Ngày nay Đảng yêu cầu cán bộ và Đảng viên chẳng những thạo về chính trị mà còn giỏi về chuyên môn...”, “Muốn xây dựng thì phải tăng gia sản xuất - Muốn tăng gia sản xuất thì phải cải tiến kỹ thuật. Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải có văn hóa. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải học tập, tích cực đọc sách báo, làm theo sách người tốt việc tốt”27 27 Hồ Chí Minh.- Vấn đề học tập.- H.: Sự thật, 1971. tr.48,74 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 29 I.2.6.2 Sách là vũ khí đấu tranh giai cấp: Trong lịch sử xã hội loài người, sự phát minh ra sách là một thành tựu kỳ diệu. Sách trình bày tất cả tri thức về cuộc sống, toàn bộ quá trình phát triển tư duy của loài người. Khi sách ra đời thì xã hội đã phân chia giai cấp. Từ đó đến nay, loài người đã trải qua nhiều chế độ xã hội khác nhau, thì sách báo phản ánh trung thành và bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Trải qua nhiều thế kỷ sách đã là công cụ của giai cấp bóc lột, giai cấp phong kiến, tư sản, đã dùng sách báo về tôn giáo, sách mê tín dị đoan, sách kiếm hiệp, giật gân để dễ bề cai trị, mặt khác ngăn ngừa ảnh hưởng của sách báo tiến bộ, sách báo cách mạng. Đối với đế quốc thì bóc lột nhân dân trong cả nước của chúng chưa đủ. Mở rộng thuộc địa là lẽ sống của họ. Trong nhiều nước tư bản, giai cấp thống trị sử dụng sách báo để tăng cường đàn áp tinh thần của quần chúng lao động ra sức tuyên truyền cho tư tưởng tư sản. Ví dụ: ở các nước tư bản phương Tây đã xuất bản sách khoa học, kỹ thuật, công nghệ cần thiết và có ích, nhưng đồng thời đã xuất bản nhiều sách với quan điểm sở hữu cá nhân, hàng hóa, đồng tiền, quyền lực, bạo lực...đặc biệt, thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, càng ngày giai cấp tư sản càng sử dụng sách báo một cách trắng trợn, triệt để, có thể nói chúng đã dùng sách báo như những tên đao phủ, dùng cái dao để giết người, như tên kẻ cướp dùng bó đuốc để đốt nhà người. Chúng cho xuất bản những cuốn sách dạy ăn cướp, giết người, dạy cách tự tử, dạy cách tống tiền, hãm hại người khác.28 Chúng dùng sách báo để tuyên truyền cho chiến tranh lạnh, chia rẽ, gây hằn thù dân tộc, phân biệt chủng tộc, màu da, tuyên truyền chống cộng. Chúng cho lưu hành những quyển sách không có giá trị nghệ thuật, như tiểu thuyết phạm tộc, khiêu dâm, trụy lạc, trinh thám...để đánh lạc hướng những người dân lao động về cuộc sống căng thẳng của họ, làm cho họ không nghĩ gì đến quyền lợi, đến lợi ích tương lai của mình, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với những mục đích này sách được bổ sung vào các thư viện các nước tư bản được chọn lọc, kiểm 28 Hồ Chí Minh. Tuyển tập.- H.: Sự thật, 1960, tr.65, 156, 160 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 30 duyệt tỉ mỉ để phục vụ cho độc giả những tài liệu sách báo có lợi cho giai cấp tư sản. Trong khi đó các nhà học giả tư sản không ngừng tuyên truyền cho tính “Khách quan”, tính “Phi giai cấp”, tính “Vô tư”, tính “Ngoài chính trị” của sách báo... Ngược lại, giai cấp vô sản luôn luôn công khai thừa nhận sách báo là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình, là tiếng nói của những người lao động, vạch trần thủ đoạn áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến, tư sản. Trong bài báo nổi tiếng “Tổ chức Đảng và văn học Đảng” V.I. Lênin đã khẳng định: “Các nhà xuất bản, các kho sách, các hiệu sách, các phòng đọc sách, các thư viện và các nơi bán sách báo - Tất cả đều phải trở thành của Đảng, phải chịu trách nhiệm trước Đảng”29 Tính giai cấp của sách báo vô sản không những chỉ là vấn đề lý trí, mà còn là vấn đề tính cảm, không chỉ là lập trường chính trị, mà còn là quan điểm khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật của cả tác giả lẫn cán bộ biên tập. Một số xuất bản phẩm có giá trị chẳng những truyền bá đúng đường lối chính sách của Đảng, mà còn phản ánh cuộc sống một cách chân thật, sinh động, hấp dẫn; chẳng những nhằm mục đích củng cố lập trường chính trị mà còn có tác dụng nâng cao tình cảm, nhiệt tình cách mạng của người đọc. Tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính quần chúng, tính khoa học - Đó là mối tổng hòa các quan hệ thuộc về bản chất của sách báo vô sản. Tính giai cấp của sách báo cách mạng phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thành hệ tư tưởng của toàn dân, chỉ đạo mọi mặt hoạt động của xã hội, đồng thời phải đấu tranh xóa bỏ mọi hệ tư tưởng thù địch của giai cấp bóc lột và khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc. Đi đôi với việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chống lại các tư tưởng phi vô sản và các phong tục tập quán lạc hậu. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa sách báo 29 V.I. Lênin . Toàn tập, T.10.-H.: NXB Sự thật, 1964, tr.46 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 31 là vũ khí đấu tranh tư tưởng, là công cụ giáo dục đạo đức, nâng cao trình độ khoa học, văn hóa cho nên mang tính chiến đấu cao. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã chỉ rõ: “Báo chí, thông tin, truyền thanh điện ảnh và các công tác văn hóa khác phải thực sự trở thánh vũ khí ngày càng sắc bén của giai cấp công nhân trên mặt trận tư tưởng và chính trị...”30. Sách báo dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cộng sản đã mang tính chất chính trị rõ ràng, đã thực sự trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp. I.3 . CÁC VẬT LIỆU MANG TIN I.3.1 Các vật liệu mang tin thô sơ từ thời cổ đại, trung đại Vật liệu tạo nên sách là phương tiện vật chất để cuốn sách hình thành. Tùy hoàn cảnh lịch sử xã hội khác nhau, xuất hiện những loại vật liệu khác nhau, từ đấy dẫn đến việc sách có thể phát triển nhiều hay ít, tốt hay xấu. Với vật liệu tự nhiên như đất sét, lá cây, vỏ cây, da thú, đá, đồng, gỗ.... thì sách không thể có nhiều được. Chỉ đến khi con người phát minh ra vật liệu mang tin sản xuất theo phương pháp công nghiệp thì sách mới có điều kiện tăng nhanh về số lượng. I.3.1.1 Đất sét nung: Đất sét nung là loại nguyên liệu có ở hầu hết các nơi trên trái đất. Cùng với kỹ thuật làm đồ gốm có vẽ hoa văn, người ta đã nghĩ đến việc viết chữ trên đất sét đem nung. Tại các quốc gia cổ đại vùng Lưỡng Hà người ta đã tìm thấy 20.000 cuốn sách bằng đất sét nung hình vuông hoặc hình tam giác của thư viện nhà vua Atxuabanipan (668 - 633 trước công nguyên.) Những tấm đất sét nung có chiều cao 0,125 cm viết bằng chữ nét mác, đánh số thứ tự trên mỗi trang. Ở đầu mỗi tấm thường ghi câu cuối của tấm trước đó cho dễ tìm. Những tấm đất sét nung được xếp vào các hộp bằng gỗ để tránh vỡ, gẫy...31 30 Văn kiện đại hội Đảng lần thứ III.- H.: “Sự thật”, 1960, tr.187 31 E.I. Kasơpơzak . Lịch sử sách.-M.: 1964, tr.23 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 32 I.3.1.2 Papirut: Ở bên bờ sông Nin có những cây giống cây sậy, gọi là Papirút. Khoảng 2000 năm trước công nguyên, người dân ở vùng này đã lấy vỏ cây phơi khô, bào nhẵn... sản xuất thành giấy viết gọi là giấy Papirút. Người ta cuộn thành cuộn dài gọi (Có cuộn dài tới 20m) chiều rộng thường là 15-30 cm. Những cuộn Papirút hai đầu gắn vào hai trục (Gọi là Volumen). Mỗi cuộn là một tập sách (Culmen). Nhiều tập sách hợp lại thành quyển (Liber)... Chính xuất phát từ chữ này mà sau này một số nuớc châu Âu dùng chữ “Livre” để chỉ khái niệm sách. Người Ai cập thường dùng loại Papirút để ghi các tri thức toán học (Hình học, đại số), ghi chép sinh hoạt xã hội, các cuộc khởi nghĩa và cả những bói toán, thần chú. Trong các mộ cổ, người ta tìm thấy những cuộn Papirút ghi những “Điều vong nhân”, hướng người chết đi vào thế giới khác, hoặc ghi lai lịch người chết. Hiện nay còn lưu giữ được một cuộn viết từ 2000 năm trước công nguyên bằng chữ tượng hình Ai Cập. I.3.1.3 Sách bằng da: Cùng với nền văn minh Ai Cập, tại thành phố Aten (Hy Lạp) theo chế độ dân chủ chủ nô, có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao. ở đó tập trung nhiều nhà bác học, triết học, nhà văn... sợ bị nền văn minh ở đây lấn áp vua Ai Cập ra lệnh cấm chở Papirút sang Aten. Để khắc phục tình trạng thiếu giấy viết, người Hy Lạp đã dùng da thay thế Papirút. Họ lấy da bò, da cừu bào nhẵn để viết chữ lên đó. Cuốn sách chế từ da có tên là “Parchemin” xuất phát từ tên thành phố đầu tiên đã nghĩ ra cách làm giấy bằng da. Hiện nay, tại thư viện Hoàng Gia Anh còn bảo quản tập sách Iliat Ôđixê viết trên da rắn. I.3.1.4 Sách bằng xương thú mai rùa: Tại một số nơi người ta dùng xương thú, mai rùa (Giáp, cốt) để làm nguyên vật liệu viết sách. Dân vùng lưu vực sông PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 33 Hoàng cuối đời Thương (Thế kỷ XVII - XI trước công nguyên) đã dùng loại vật liệu này. Họ đem những mảnh xương thường và xương ống chân súc vật và mai rùa gia công theo ý định, rồi dùng dao nhọn khắc chữ lõm vào. Trên các loại vật liệu này, người ta thường chỉ ghi những điều bói toán, mê tín, các điều lành, điều dữ, hoặc luật lệ... Do bề mặt của ống xướng, mai rùa nhỏ nên số chữ ghi trên đó chỉ có hạn. I.3.1.5 Sách bằng đồng: Trong thời chiếm hữu nô lệ, khái niệm tư “của anh”, “của tôi” ra đời. Từ đó đã thấy xuất hiện những tấm đồng ghi chia tài sản cho người nào đó. Trong những công trình khiến trúc lớn, các chùa chiền người ta cũng khắc những bài văn, bia, hoặc khắc trên khánh, trên chuông, khánh đồng tên những người xây dựng, công đức... I.3.1.6 Sách bằng đá: Đó là một nguyên liệu có nhiều nơi trên trái đất. Đá có ưu điểm dễ bề khắc hơn so với kim loại cứng. Chữ khắc trên đá có khả năng bảo quản lâu dài. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 34 Người Ấn Độ cổ đại, người Ai Cập cổ đại đã có văn tự ghi trên đá. Tại nhà thờ Phíp (Hy Lạp) vùng Trung Cận Động người ta đã khắc cuốn sử biên niên từ thời cổ đại trên những phiến đá, mỗi phiến 40 m2. Tại nhà thờ Măng đa lay (Miến Điện) đã đặt 728 phiến đá, mỗi phiến nặng 1 tấn, trên đó khắc nội dung bộ kinh Phật... Ở Việt Nam, năm Quý dậu 973, Đinh Liễn con trai của Đinh Bộ Lĩnh đã cho khắc bộ kinh Đại Tạng trên 100 cột đá tại kinh thành Hoa Lư. Bộ bia đá trong Quốc Tử Giám là những trang sách ghi lại lịch sử khoa cử của dân tộc từ 1442 - 1779. Chúng ta có thể lấy nhiều ví dụ sách bằng đá thời Xuân Thu (770 -475 trước Công nguyên) ở Trung quốc... I.3.1.7 Sách bằng tre: Tre là một loài cây mọc nhiều ở vùng Đông Nam Á, tre có đặc tính dẻo, dai, nhẹ, nếu bảo quản tốt có thể giữ được lâu...Nhân dân vùng lưu vực sông Hoàng đã sớm dùng vật liệu này để làm sách. Từ đời Thượng đã thấy xuất hiện loại sách này. Đời Chu sách bằng tre được dùng tương đối phổ biến32. Từ thời chiến quốc (475 - 221 trước CN) đến đời 32 Lưu Quốc Quân.- Sơ giản lịch sử sách Trung quốc.- Bắc Kinh, 1958, tr.25 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 35 Đông Hán (Thế kỷ III) nhân dân sử dụng vật liệu tre để ghi chép là chính. Người ta gọi nó là giản sách. Giản đó là những thanh tre dài 3,40 cm. Mỗi giản viết một hàng chữ, mỗi hàng có 8 chữ. Cũng có giản viết đến 22, 25 chữ. Những giản sách được đánh số thứ tự, dùng dây xuyên lại thành bó, thành quyển sách. I.3.1.8 Sách bằng gỗ: Gỗ là loại vật liệu dùng để khắc chữ, gỗ lại nhẹ, tương đối bền. Các vua chúa xưa kia thường dùng gỗ để khắc sắc chỉ. Những sắc chỉ này được buộc lại, gắn xi đánh dấu. Lúc bấy giờ gọi là Bản độc. Sách bằng gỗ còn gọi là phương sách. Trong nhân dân chúng ta thấy xuất hiện nhiều hình thức ghi chép trên gỗ. Đó là hoành phi câu đối, ghi chép những lý tưởng sống, những ước nguyện mong mỏi đạt được. Đó là các biểu trên các kiến trúc đình, chùa... Ngoài văn tự có một số bản khắc gỗ bằng hình ảnh miêu tả cuộc sống, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt văn hóa, lễ hội của nhân dân, có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao. I.3.1.9 Sách bằng lụa: Lụa là một loại vật liệu quý hiếm, đẹp, bền, dễ viết, dễ vẽ. Lụa có thể cuộn lại thành cuộn dễ bảo quản. Vì vậy người ta đã dùng lụa để làm sách. Ở Việt Nam, lụa còn dùng để làm nền vẽ tranh, người ta gọi là tranh lụa. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 36 I.3.1.10 Giấy: Đây là loại vật mang tin có nhiều ưu điểm hơn các loại vật liệu trình bày trên đây. Từ khi xuất hiện giấy, sách phát tirển nhanh hơn, nhiều hơn về số lượng và chất lượng. Người đầu tiên tìm ra giấy là Thái Luân vào thế kỷ thứ II. Sách Hậu Hán thư của Phạm Viện đã viết: Thái Luân đã dùng vỏ cây, dẻ rách, lưới đánh cá cũ nghiền nát và tráng thành giấy. Đầu tiên người ta sản xuất giấy bằng phương pháp thủ công. Đến thế kỷ thứ XII, ở châu Âu người ta sản xuất giấy bằng phương pháp công nghiệp sử dụng phương tiện máy móc. Năm 1150 Tây Ban Nha mở nhà máy giấy đầu tiên. Tiếp theo nhà máy giấy được mở ở Pháp (1189), ở Ý (1276), ở Đức (1391), ở Anh (1494), ở Nga (1564), ở Mỹ (1690).... I.3.2 Các vật tin từ khi phát minh ra máy in cho đến nay I.3.2.1 In ấn (Print) sách, báo, tạp chí, bản đồ, bản vẽ...: Sáng chế ra nghề in ở châu Âu gắn liền với tên tuổi của Guytenbec (Đức). Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành trong lòng chế độ phong kiến. Cơ khí máy móc thay thế lao động thủ công. Sách báo là vũ khí lợi hại để giai cấp tư sản giành giật hàng hóa, sức lao động từ tay các chúa đất, trở thành nguồn lợi cho các nhà tư bản. Guytenbec đã sáng tạo ra cách in mới nhưng phải giữ bí mật, có lẽ sợ va chạm với nhà thờ. Giáo hội căm ghét những có ý định làm thay đổi đức tin trong đám giáo dân của họ. Điều này, về sau nhà văn Pháp Vichto - Huy gô trong tác phẩm «Nhà thờ Đức bà Pari» đã nói tới. Ông cứ lặng lẽ sáng chế, cuốn sách đầu tiên được in vào năm 1440 - đó là cuốn kinh của giáo hội Bibles. Vào năm 1459, những quyển sách in bằng chữ đúc bắt đầu xuất hiện. Đó là những kinh thánh như kinh 300 tờ PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 37 (Bible de tris cents feuilles). Sách in sắc nét, được người đọc ưa thích. Nhà vua Charles VII của Pháp thấy rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp in đã lập ra nhà in đầu tiên ở Sorbonne. Cuốn sách in máy đầu tiên ở Pháp là cuốn Thư của Gasparin ở Bergame, in vào năm 1470 bằng chữ La mã. Các vua Pháp lúc bấy giờ rất coi trọng ngành in sách. Ví dụ, vua Franscois đã miễn quân dịch cho thợ in sách. Để tàng trữ, lưu giữ sách in ra ngày 8 tháng 12 năm 1536 vua Franscois ra lệnh tất cả sách in bằng bất cứ thứ tiếng nào đều phải nộp một bản cho thư viện của nhà vua đặt tại lâu đài Eloi trước khi bán ra ngoài. Cuốn sách in bằng tiếng Pháp sớm nhất là «Lịch sử thành Toa» (Histoire de Troyes - 1467) hiện nay vẫn còn một bản được lưu giữ tại thư viện quốc gia Pháp. Năm 1814, Koenig sáng tạo ra máy in mới dùng ống tròn ép thay cho bản ép phẳng. Lần đầu tiên máy mới này in tờ tin tức Luân Đôn, mỗi giờ máy in được 800 tờ. Năm 1838, nhà điện học Nga phát minh ra phương pháp mạ điện vào các khuôn chữ, phát minh này nét chữ in rất rõ ràng và có sức chịu lực cao, mỗi giờ in được 40.000 tờ. Hiện nay kỹ thuật in sách đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, người ta đã dùng vô tuyến điện thông, dùng phương pháp phắc Simin để truyền in báo, dùng bản in typophôtôpolyme, kết họp in ốpxet và typo phôtôpolyme, dùng phương pháp chụp ảnh ở thế hệ hai có tính ổn định cao về kỹ thuật, dùng phương pháp sắp chữ phi kim loại (Sắp lạnh),dùng máy quang phổ phôtôpolyme và in lõm... Từ khi kỹ thuật điện tử phát triển, máy tính điện tử kết hợp với máy sao chụp vào việc sắp chữ đã đưa công suất từ 1000 ký hiệu lên 1 triệu rưởi kí hiệu trong một giờ. Tính ra mỗi trang báo sắp chữ theo phương pháp này chỉ mất 10 giây. Gần đây ở Mỹ người ta dùng tia Lade để in chữ. Với phát minh này có thể ghi 100 triệu ký hiệu trong một giây...33 Phương pháp in của Cơnơphande (1796) có thể in tranh ảnh, các biểu mẫu, bản đồ, bản vẽ kỹ thuật một cách dễ dàng. Phát minh của Cơnơphande đã bổ sung cho phát minh 33 Kĩ thuật in.- tháng 12/1976 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 38 của Guytenbec, giúp chúng ta có thể in sách báo và cả hình ảnh lên sách báo. I.3.2.2 Không in ấn (Non -print): Băng từ, vi phim, vi phiếu, đĩa CD-Rom... Trong thời đại ngày nay, những thành tựu khoa học, kỹ thuật công nghệ thông tin phát triển, người ta đã chế ra vật liệu mang tin hiện đại, đọc bằng máy đọc, hoặc lưu giữ thông tin, lưu trữ tri thức trên máy tính điện tử, thuận lợi cho việc tìm tin, thỏa mãn nhu cầu cho bạn đọc và người dùng tin. - Băng từ, đĩa từ, ghi âm, ghi hình ảnh (Video - casette)34 - Loại vật liệu này là phương tiện chuyển tải thông tin gồm có: văn bản (Text), hình ảnh, đồ họa, âm thanh, tiếng nói, âm nhạc và truyền hình, có thể xử lý trên máy tính. Chính vì vậy loại vật liệu này tích hợp thông tin đầy đủ hơn, sinh động hơn. Ví dụ: Băng, đĩa, ghi âm, ghi hình - Một bộ multimedia âm nhạc dân tộc Việt Nam với hình ảnh trống đồng, đàn đá, đàn bầu...có cả hình video người nghệ sĩ đang trình bày, nghe được âm thanh tiết tấu kèm theo với dòng chữ giới thiệu niên đại, xuất xứ, như vậy hấp dẫn hơn nhiều so với nhiều cuốn sách cùng đề tài. - Vi phim (Microfilm)35 : Vi phim cũng lưu giữ hình ảnh, sự vật, hình ảnh những tranh sách cần lưu lại. Vi phim là những cuộn phim trong đó chụp nhiều vi hình, mỗi vi hình là một trang sách. Trung bình một thước phim cỡ 1,6 cm chụp được 70 trang sách. Vi phim có khả năng chứa đựng trong đó một lượng thông tin khá lớn, không chỉ những mang tính chất lưu trữ mà là một kho tư liệu sinh động, thông qua các máy chiếu, máy đọc, để cung cấp nhiều thông tin cho bạn đọc. -Vi phiếu (Microcarte)36 : Vi phiếu là những tờ phiếu có kích thước khác nhau, loại vi phiếu thường dùng trong các thư viện và cơ quan thông tin gồm có hai loại: Khổ mẫu 10,5x14,8 cm và loại có kích thước 7,5x12,5 cm. Trên vi phiếu có in nhiều dãy vi hình. Vi phiếu chính là bản sao của 34 Kĩ thuật in.- tháng 12/1976 35 Báo Quân đội nhân dân. 1976 tháng 8, ngày 230 36 Báo Quân đội nhân dân. 1979 tháng 5, ngày 8 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 39 các ấn phẩm sách, báo, tạp chí... thông qua máy đọc để đáp ứng nhu cầu tin trong các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, giảng dạy học tập, sản xuất và đời sống. - CD-Rom _ Là loại đĩa ghi thông tin thích hợp, được tạo ra, xử lý trên máy tíựnh và lưu trữ (Ghi lại) trên các vật tải tin. Vì các hình ảnh, âm thanh, video đòi hỏi dung lượng bộ nhớ lớn hơn nhiều so với văn bản nên bắt buộc phải có vật mang tin dung lượng lớn. CD-Rom là loại đĩa Compact chỉ đọc được (Compact disk read only memory) có dung lượng phổ biến là 600 Mb, nghĩa là chứa được nội dung một cuốn sách dày 250.000 trang. Mỗi đĩa Compact đường kính 12 cm, nặng 150g, có sức chứa một lượng thông tin khổng lồ, tương đương 300.000 trang tài liệu. Một đĩa Compact video chứa 50.000 bức tranh sắc màu rực rỡ. Từ những đĩa này có thể truy tìm thông tin về doanh nghiệp, năng lượng sản xuất của một quốc gia, hoặc tổû chức triển lãm gọn nhẹ, sinh động cả một bảo tàng nghệ thuật. Hiện nay loại đĩa này đã nhập vào Việt Nam và số máy có ở đọc (Drive) CD-Rom ngày càng tăng37. Nói tóm lại, các vật mang tin từ thời cổ, trung đại cho đến hiện đại và kỹ thuật in là phương tiện để ghi chép nội dung sách, nội dung tư liệu, lưu giữ tri thức của nhân loại, là điều kiện hình thành và phát triển sách. Vì vậy, có thể khẳng định sự phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ qua các thời kỳ lịch sử quyết định sự phát triển của sách và các vật mang tin khác. 37 The Vietnam Journal of Electronies and informatic .No-7/95,p.2 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 40 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I 1 Quá trình hình thành lý luận sách: phân tích khái quát các khái niệm về sách, chứng minh sách là sản phẩm đặc biệt phản ánh văn hóa vật chất và đời sống tinh thần của xã hội; Đồng thời trình bày cơ sở khoa học để phân định loại hình của sách? 2. Phân tích chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về vai trò, tác dụng của sách báo? Trình bày các chức năng cơ bản của sách? 3. Phân tích sách báo là công cụ lao động và là vũ khí đấu tranh giai cấp? Đồng thời trình bày vai trò, tác dụng của sách báo đối với thanh niên? 4. Trình bày các vật liệu mang tin từ thời cổ, trung, cận, hiện đại luôn luôn gắn liềnvới quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ? PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 41
| |
| | | Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: Re: NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN 5/4/2011, 8:16 pm | |
| CHƯƠNG II: CƠ SỞ THƯ VIỆN HỌC VÀ THÔNG TIN HỌC ...........................................................................................43 II.1 CƠ SỞ THƯ VIỆN HỌC.................................................43 II.1.1 Khái niệm về thư viện................................................43 II.1.2 Đối tượng nghiên cứu thư viện học..............................44 II.1.3 Vài nét về lịch sử thư viện..........................................48 II.1.4 Hệ thống thư viện Việt Nam.......................................57 II.1.4.1 Thư viện phổ thông.................................................57 II.1.4.2 Hệ thống thư viện khoa học.....................................70 II.1.4.3 Các loại hình thư viện trong tương lai.......................82 II.1.5 Phục vụ bạn đọc........................................................86 II.1.5.1 Phục vụ độc giả trong thư viện.................................86 II.1.5.2 Phục vụ độc giả ngoài thư viện................................89 II.2 THÔNG TIN HỌC .....................................................90 II.2.1 Thông tin học là bộ môn khoa học.............................90 II.2.1.1 Khái niệm thông tin................................................90 II.2.1.2 Thuật ngữ...............................................................91 II.2.1.3 Đối tượng nghiên cứu của thông tin học...................91 II.2.1.4 Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển...............92 II.2.2 Hoạt động thông tin thư viện thư mục là các ngành khoa học thực nghiệm của thông tin học......................................93 ChươngM II ucï lucï NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 42 II.2.3 Thông tin học và thực tiễn xã hội................................94 II.2.3.1 Vai trò của thông tin khoa học.................................94 II.2.3.2 Thông tin khoa học kỹ thuật là nguồn lực của mỗi quốc gia..............................................................................94 II.2.3.3 Vai trò thông tin trong khoa học, kỹ thuật và sản xuất..............................................................................95 II.2.3.4 Vai trò thông tin phục vụ cán bộ lãnh đạo và quản lí................................................................................97 II.2.3.5 Thông tin giữ vai trò quan trọng trong giáo dục và đào tạo...............................................................................98 II.2.4 Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ..............100 II.2.4.1 Định nghĩa hoạt động thông tin khoa học và công nghệ.........................................................................101 II.2.4.2 Các quá trình hoạt động thông tin khoa học và công nghệ.........................................................................103 II.2.4.3 Đào tạo, bồi dưỡng người dùng tin..........................108 II.2.5 Các mạng thông tin khoa học và công nghệ truyền dữ liệu...............................................................................109 II.2.5.1 Sự bùng nổ thông tin..............................................109 II.2.5.2 Xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hoá...111 II.2.5.3 Vài nét về hệ thống thông tin thư viện tự động hoá của các nước tư bản.................................................................116 II.2.5.4 Vài nét về mạng tin học và truyền dữ liệu quốc tế...117 II.2.5.5 Vài nét về mạng tin học và truyền dữ liệu ở Việt nam...........................................................................119 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II..........................................125 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 43 CHƯƠNG II CƠ SỞ THƯ VIỆN HỌC VÀ THÔNG TIN HỌC II.1 CƠ SỞ THƯ VIỆN HỌC Thư viện học là bộ môn khoa học xã hội nghiên cứu quy luật phát triển sự nghiệp thư viện như một hiện tượng xã hội, liên hệ một cách hữu cơ với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội với những quan điểm và tư tưởng của giai cấp thống trị trong các chế độ xã hội khác nhau. II.1.1 Khái niệm về thư viện Danh từ thư viện xuất phát từ chữ Hy Lạp Biblio - là sách, thêka - là bảo quản. Vậy thì, thuật ngữ “ Thư viện “ do hai chữ: thư là sách, viện là nơi bảo quản. Thư viện theo nghĩa đen là nơi tàng trữ sách báo. Các nhà thư viện học tư sản “Khái niệm thư viện “ là nghệ thuật sắp xếp sách và xây dựng kho sách, thư viện là nơi tàng trữ sách báo. Do đó, họ coi trọng công tác kỹ thuật của thư viện, ít quan tâm đến vai trò xã hội của thư viện, có nghiên cứu một vài khía cạnh xã hội học thư viện theo quan điểm tư sản về nhân chủng học và văn học. Các nhà thư viện học xã hội chủ nghĩa “khái niệm thư viện” cần phải tổ chức tốt kho sách - Là cơ sở vật chất trọng yếu của thư viện, kho sách với khái niệm có ích cho xã hội, vì nó tiêu biểu cho nền văn hóa của một dân tộc, một nuớc, hay một địa phương. Nhưng điều cơ bản, chủ đạo và quyết định vai trò, tác dụng của thư viện trong xã hội, hiệu quả, chất lượng phục vụ bạn đọc góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Nhà văn Sô bô lép đã nêu rõ “Khái niệm thư viện”: “Thư viện - là kho tàng sách báo đa dạng, phong phú, - Là cơ thể NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 44 sống, hoạt động nuôi dưỡng rất nhiều người, - Là món ăn tinh thần của độc giả, thỏa mãn một cách đầy đủ lợi ích nhu cầu và hứng thú của họ”38 II.1.2 Đối tượng nghiên cứu thư viện học Thư viện học nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, nội dung công tác thư viện, những nguyên lý, hệ thống và hình thức sử dụng sách báo mang tính chất tập thể và xã hội. Thư viện học nghiên cứu những vấn đề xã hội học cụ thể như: “Nhân dân với sách báo”, “Sự đọc sách và độc giả”, “Sự hướng dẫn đọc sách”, “Hệ thống tổ chức thư viện phục vụ nhân dân”... Tổ chức kỹ thuật thư viện, công nghệ hóa quá trình thư viện là đối tượng nghiên cứu của thư viện học tư sản. Ví dụ, hệ thống mục lục của thư viện là phương tiện chỉ dẫn tìm sách đơn thuần về mặt trang bị kỹ thuật, chứ không phải là công cụ quan trọng sử dụng vào việc thông tin, tuyên truyền và hướng dẫn đọc sách có hệ thống cho độc giả... - Đối tượng nghiên cứu của thư viện học xã hội chủ nghĩa: . Nghiên cứu các khía cạnh xã hội của sự nghiệp thư viện . Nghiên cứu các hình thức tổ chức thư viện phục vụ nhân dân . Nghiên cứu hiệu quả kinh tế các mặt hoạt động của thư viện. . Nghiên cứu vai trò xã hội của thư viện như một cơ quan văn hóa, giáo dục ngoài nhà trường. . Nghiên cứu quá trình cơ giới hóa và tự động hóa của thư viện gắn liền với sự phát triển khoa học và công nghệ trong điều kiện xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự khác nhau cơ bản về đối tượng nghiên cứu giữa thư viện học tư sản và thư viện học xã hội chủ nghĩa, vai trò xã hội của thư viện, mục đích của việc đọc sách và hướng dẫn 38 Tạp chí “Thư viện” 1962, số 8, tr.8 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 45 đọc. Xuất phát từ quan điểm đối lập này, thư viện học tư sản không thừa nhận vai trò giáo dục của thư viện trong xã hội có chế độ chính trị khác nhau. Thư viện học bao gồm các phần chính sau đây: 1/ Thư viện học đại cương: Thư viện dại cương nghiên cứu vai trò của thư viện trong hệ thống các cơ quan văn hóa, giáo dục, khoa học và sản xuất. Nghiên cứu những nguyên lý tổ chức sự nghiệp thư viện, những nguyên tắc xây dựng hệ thống, mạng lưới thư viện, phân định các loại hình thư viện. Tổ chức thư viện phục vụ có phân biệt cho từng nhóm dân cư khác nhau. Nghiên cứu chính sách, phương hướng, phát triển thư viện và các hình thức, phương pháp chỉ đạo, lãnh đạo sự nghiệp thư viện. 2/ Kho sách thư viện: Là một bộ phận cấu thành của thư viện học. Phần này nghiên cứu sâu về những nguồn tin tư liệu, các nguyên tắc bổ sung kho sách như: tính khoa học, tính kế hoạch, tính hợp lý, tính hiện đại và cập nhật của công tác bổ sung vốn tư liệu; Các hình thức bổ sung: bổ sung khởi đầu, bổ sung hiện tại, bổ sung hoàn bị. Nghiên cứu hệ thống cung cấp sách báo cho thư viện: cơ quan phát hành, chế độ nộp lưu chiểu văn hóa phẩm, trao đổi sách giữa các thư viện trong nước và quốc tế...; Nghiên cứu tổ chức các loại hình kho sách: kho khép kín (Kho chính, kho phụ, kho tạp chí, báo, kho tài liệu đặc biệt, kho lưu), kho mở (kho tự chọn)...; Phương pháp sắp xếp kho sách: theo phân loại, theo trang khổ, theo đăng ký cá biệt...Đăng ký kho sách gồm: Đăng ký cá biệt, đăng ký tổng quát; Tổ chức bảo quản và kiểm kê kho sách của thư viện. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 46 3/ Mục lục thư viện: Mục lục thư viện là một phần của thư viện học. Phần này trình bày cách mô tả và phân loại các ấn phẩm theo tên tác giả, tên sách, phương pháp miêu tả sách có nhiều tập, bộ tùng thư...Cách mô tả ấn phẩm đặc biệt, mô tả ấn phẩm định kỳ...Trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển, để hòa nhập, trao đổi và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực và thế giới, cần thực hiện mô tả theo theo tiêu chuẩn quốc tế, gọi tắt là ISBD (International Standard Bliography Description). Phân loại các ấn phẩm có trong kho thư viện, trước hết phải xác định nội dung của quyển sách, xác định công dụng của sách và vị trí của nó trong bảng phân loại, xác định ký hiệu phân loại của từng quyển sách... Nghiên cứu phương pháp cấu tạo mục lục, có 3 loại mục lục cơ bản: - Mục lục chữ cái: trong đó các ấn phẩm được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái họ, đệm, tên tác giả hoặc tên sách (Nếu không có tên tác giả). - Mục lục phân loại : trong đó các ấn phẩm được sắp xếp theo môn loại tri thức khoa học: tự nhiên, xã hội, nhân văn và tư duy... - Mục lục chủ đề: đối với các thư viện khoa học chuyên ngành, thư viện các trường đại học, các viện nghiên cứu... ngoài 2 loại mục lục chữ cái và mục lục phân loại, cần xây dựng mục lục chủ đề, trong đó các ấn phẩm được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái tên gọi các chủ đề mà cuốn sách đó đề cập đến. Hiện nay các nước trên thế giới coi mục lục là hệ thống tìm tin mang tính chất truyền thống, là phương tiện có hiệu quả để tuyên truyền, giới thiệu nội dung kho sách của thư viện, giúp độc giả chọn được sách hay, sách tốt nhanh chóng đúng yêu cầu. Mặt khác thư viện áp dụng công nghệ mới tin học hóa các loại hình mục lục đọc bằng máy MARC (Marchine read catalogue). PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 47 4/ Công tác độc giả: Nghiên cứu những nhiệm vụ, nội dung và nguyên tắc công tác bạn đọc. Vai trò của thư viện trong việc tự học góp phần nâng cao dân trí. Nghiên cứu hứng thú và nhu cầu của bạn đọc, hướng dẫn phương pháp đọc sách. Tổ chức hệ thống phục vụ bạn đọc: Phương pháp công tác với từng bạn đọc, phương pháp tuyên truyền trực quan, tuyên truyền miệng, tổ chức các loại phòng đọc: Phòng đọc tổng hợp, phòng đọc chuyên ngành, phòng đọc tạp chí, phòng đọc quý hiếm, phòng đọc microcart, CD-Rom...Tổ chức các loại phòng mượn, phòng mượn giữa các thư viện, chi nhánh thư viện, thư viện lưu động, các trạm giao sách...Cần phải tiến hành cải tiến phương pháp tuyên truyền, hướng dẫn và lãnh đạo đọc sách theo từng ngành khoa học trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, các ngành công nghệ mũi nhọn như tin học, điện tử, vật liệu mới phục vụ cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Tuyên truyền, hướng dẫn đọc sách văn học, nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, tình cảm, xây dựng con người phát triển toàn diện, chú trọng hướng dẫn thiếu nhi đọc sách người tốt việc tốt, làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, thực hiện nhiệm vụ trăm năm trồng ngưòi. 5/ Tổ chức và quản lý thư viện: Là phần cơ bản của thư viện học. Bao gồm: Tổ chức lao động khoa học trong thư viện đại chúng và thư viện khoa học. Định mức tiêu chuẩn lao động trong từng loai hình thư viện. Cơ cấu thư viện theo chức năng phù hợp với từng loại hình thư viện. Quản lý thư viện bao gồm quản lý kế hoạch công tác: kế hoạch dài hạn, kế hoạch năm, hàng quý, hàng tháng... kế hoạch cá nhân, kiểm tra đôn đốc hoàn thành kế hoạch. Quản lý nhân sự có nghĩa là quản lý con người, quản lý nghề nghiệp chuyên môn để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho cán bộ, quản lý trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ và thâm niên, tình cảm, đời sống của cán bộ để có chính NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 48 sách thích hợp, động viên tính năng động, sáng tạo của cán bộ để không ngừng nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả trong công tác. Thống kê, báo cáo, ngân sách và hạch toán của thư viện. Quản lý toàn bộ tài sản và thiết bị, trụ sở thư viện, kho sách, xây dựng, bổ sung trang thiết bị hiện đại nhằm từng bước thực hiện cơ giới hóa và tự động hóa quá trình hoạt động của thư viện. 6/ Lịch sử sự nghiệp thư viện: Nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển sự nghiệp thư viện. Nghiên cứu nội dung, hình thức, phương pháp và tổ chức sử dụng sách báo mang tính chất tập thể xã hội trong các chế độ xã hội khác nhau gắn liền với chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội đó. Trên đây là đối tượng nghiên cứu thư viện học. Chúng ta cấn tiếp tục tìm hiểu nguồn gốc lịch sử về việc hình thành và phát triển thư viện nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận của thư viện học nước ta ngày càng hoàn thiện. II.1.3 Vài nét về lịch sử thư viện Theo các nguồn tài liệu sử học và khảo cổ học, thư viện trên thế giới đã xuất hiện từ thời cổ đại, khoảng 2750 trước công nguyên, đó là thư viện của nhà vua Xa ra gôn I, ở thành phố A ca dơ39 Vào thế kỷ VII (668 - 633) trước công nguyên, trong thư viện của nhà vua Át xi ri tàng trữ 20.000 cuốn sách bằng đất sét. Nội dung kho sách của thư viện rất phong phú, gồm biên niên sử, những sách khoa học đã ghi lại nhiều thành tựu của người Xu me, người Va vi lon, người Át xi ri; Những sách văn học bao gồm truyện cổ tích, truyện thần thoại, các bản anh hùng ca; Những tác phẩm thiên văn học; Những cuốn từ điển Xu me - Va vi lon; tuyển tập giáo trình; Các bài tập ngữ pháp. Thư viện còn tàng trữ nhiều cuốn sách quý về ngôn 39 E.I. Samurin.- Lịch sử phân loại thư viện thư mục. T.1.-M.: 1955, tr.10 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 49 ngữ, lịch sử, đời sống, tập quán, pháp luật của các dân tộc vùng Lưỡng hà thời bấy giờ. Thư viện Alechxăngdri thành lập vào thế kỷ III trước công nguyên - là thư viện công cộng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Kho sách thư viện gồm 90.000 tập, đa số là các tác phẩm của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại và của các dân tộc vùng Trung cận Đông. Ở đây có nhiều tác phẩm nổi tiếng như bi kịch của Et sin lơ, Xô phốc, O ri pit; hài kịch của A rít xtô phan...Các tác phẩm của nhà sử học như: Hê rô đốt, Pô li bi...tác phẩm triết học của A rit stop và nhiều tác phẩm về khoa học tự nhiên, khoa học chính xác như: toán, lý, hóa, thiên văn, y học, thực vật, địa lý...Tất cả các công dân được quyền sử dụng thư viện, nhiều nhà bác học đã nghiên cứu và làm việc trong thư viện như nhà toán học Ơ cơ lít và ác si mét, nhà lý học Hi ê rông... Nhà bác học Ca li mác, đồng thời là người trông coi thư viện Alếchxăngđri đã tiến hành phân loại sách trong thư viện, công trình này gồm 122 tập. Bộ phân loại sách này đến nay không còn nữa40 Ở các nước phương tây thời trung thế kỷ nhiều thư viện được tổ chức trong các nhà thờ, tu viện, trường học. nhưng thư viện đặc biệt phát triển từ thế kỷ thứ XV, sau khi phát minh ra nghề in, số lượng sách báo tăng nhanh, nhu cầu nghiên cứu khoa học, kỹ thuật lên cao, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu phát triển, giai cấp tư bản chủ nghĩa bắt đầu phát triển, giai cấp tư sản đi vào xây dựng mạng lưới tương đối rộng rãi trong các viện hàn lâm, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường đại học, các nhà máy, xí nghiệp, các nơi tâp trung đông dân cư. Bà N.C Crup-xcai-a đã nhân xét: “Giai cấp tư sản đã nhanh chóng hiểu ra rằng thư viện là công cụ sắc bén để tuyên truyền ảnh hưởng tư sản đối với quần chúng, đã lập ra đủ các kiểu thư viện phục vụ cho quần chúng tầng lớp dưới, biến họ thành những người phục vụ trung thành cho giai cấp tư sản”41 40 E.I. Samurin.- Lịch sử phân loại thư viện thư mục. T.1.-M.: 1965, tr.25 41 N.C.Crupxcaia. Bàn về sự nghiệp thư viện. Tuyển tập. M.: 1957, tr.135 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 50 Sự hình thành và phát triển thư viện Việt nam thời phong kiến. Thư viện xuất hiện vào thế kỷ thứ XI, sau khi nước ta giành được chủ quyền độc lập chế độ phong kiến tập quyền trung ương dần dần ổn định, bắt đầu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng trường học, mở các khoa thi, xây dựng kho chứa sánh như: dựng nhà Tàng kinh Trần Phúc (1011) Tàng kinh Bác Giác (1021), Tàng kinh đại hùng (1023), Tàng kinh Trung Hưng ( 1034 ).42 Đời Lý, Phật giáo được coi là quốc giáo. Phần lớn các kho sách của thư viện tàng trữ, bảo quản là sách Kinh Phật. Theo sách Thiền uyển tập Anh thời Lý có khoảng 40 nhà sư làm thơ, viết văn nổi tiếng. Trong đó cónhững tác phẩm tiêu biểu nhất của các thiền sư như: Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu... Sách Phật giáo của thư viện bao gồm nhiều tác phẩm có tinh thần dân tộc, vì tác giả vừa là nhà tu hành lại vẫn hành động và suy nghĩ như người dân Đại Việt. Các tác giả thiền sư đã tiếp thu tinh thần tự lực, tự cường, cũng như lòng yêu mến thiên nhiên đất nước của dân tộc ta. Ngoài ra, trong kho sách thư viện tàng trữ nhiều tác phẩm có giá trị không phải của nhà chùa như sách của Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Nguyên Ức, Lý Thừa Ân..., Nguyễn Công Bật viết Văn bia chùa Báo Ân ca ngợi Lý Thường Kiệt, có uy vũ lớn, đánh nam dẹp bắc đều thắng... Lý Thường Kiệt nổi tiếng là võ công oanh liệt, nhưng một phần chính la ứđem lại sự giàu mạnh cho dân, cho nước. Văn bia chùa Linh Xứng cũng ca ngợi Lý Thường Kiệt “Cầm quân” thì “Tất thắng”, khi “coi quân” đã biết lấy việc “yêu dân” làm đầu. Trong kho sách của thư viện còn bảo quản các chiếu chỉ của vua quan như: Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, bài chiếu nêu rõ ý chí “Muốn đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu muôn đời sau”. Lý Thái Tổ muốn xây dựng đất nước một cách quy mô, phát huy quyền lực của chính quyền trung ương, chiếu dời đô phản ánh nguyện vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất. Chiếu dời đô nói lên khí phách anh hùng của nhân dân Đại Việt trên đà phát triển mạnh. Ngoài văn bia, chiếu chỉ, thư viện còn tàng 42 Lí Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn trang 424-425 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 51 trữ nhiều tác phẩm có giá trị về mặt sử học, văn học, triết học, truyện, ký, thơ ca. Ví dụ: bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” của Lý Thường Kiệt đã nêu lên ý chí của thời đại lúc bấy giờ, đề cao truyền thống, khí thế hào hùng, tinh thần dân tộc mạnh mẽ, có thể truyền lại cho các thế hệ mai sau. Năm 1070, Lý Thánh Tông sai lập Văn Miếu ở thủ đô Thăng Long, thế là bên cạnh các chùa thờ Phật, đã có miếu thờ các vị thánh hiền, nho gia, đắp tượng Chu Công, Khổng tử và 72 vị tiên hiền. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho mở Quốc Tử Giám để chăm lo giảng dạy Nho giáo, các sách giáo khoa được phổ biến rộng rãi và nhập vào thư viện ngày càng nhiều. Do đó, ngoài những kho sách tàng kinh đã có một thư viện được xây dựng bên cạnh Quốc Tử Giám (1078)43 Năm 1253, Quốc học viện được thành lập, để cho các nho sĩ tới lui học tập có kho chứa sách, phòng đọc sách, có thầy giảng dạy, có nơi lưu trú cho học sinh. Đến thời Trần Duệ Tông mở khoa thi tiến sĩ, đồng thời đã cử Trần Tông một nhà nho phụ trách thư viện Lãn Kha44 và dạy học. Cuối đời Trần nho giáo đã trở thành quốc giáo. Khi nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly lên cầm quyền đã mở trường học đến các châu, quận, huyện, nhà nước cấp ruộng đất nuôi thầy, mở lớp học và mua sách Nho giáo; Chương trình thi cử ngoài kinh, truyện sử còn có những môn thi như: làm toán, viết chữ. Sau khi đánh bại triều Hồ, quân nhà Minh chiếm nước ta thi hành chính sách cực kỳ tàn bạo, thâm độc, nhằm thủ tiêu nền văn hoá Việt Nam, Hán hóa dân tộc Việt Nam. Năm 1407 vua nhà Minh sai Trương Phụ, Trần Húc thiêu hủy tất cả sách vở của ngưới Việt, đập nát bia đá và tịch thu tất cả thư viện, sách vở về lịch sử, văn học, pháp luật, quân sự còn sót lại đưa về Kim Lăng Trung Quốc45. Từ khi nhà Lê khôi phục nền độc lập Nho giáo trở thành quốc pháp. Vua Lê Thái Tổ đã sai Nguyễn Trãi, Phan Phù 43 Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên. Quyển 3, tờ 45 44 Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên. Quyển 10, tr.5 45 Phan Huy Chú.- Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí, tr.41 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 52 Tiên, Lý Tử Tấn sưu tầm các sách vở của triều đại trước để xây dựng thư viện và đưa vào Bí thư các để tham khảo, phục vụ cho việc học tập, thi cử và giảng dạy.46 Năm 1483, Vua Lê Thánh Tông, xây dụng lại Văn Miếu và lập nhà Thái học ở sau Văn Miếu, ở đây vừa là giảng đường vừa là thư viện, là nơi bảo quản các bản in gỗ quan trọng. Trong 37 năm trị vì vua Lê Thánh Tông đã mở 12 khoa thi hội, lấy 501 tiến sĩ (Trong đó có 10 trạng nguyên). Năm 1506 nhà Lê đã tổ chức kì thi toán, có 3 vạn người dự thi. Kết quả có 1519 người trúng tuyển47 ... Như vậy, nền giáo dục triềâu Lê ngày càng phát triển. Số người dự thi hương, thi hội ngày càng đông, nhu cầu sử dụng sách báo của thư viện ở kinh thành, cho đến các đạo, quận, huyện...để học tập ngày càng cao. Nội dung sách báo tàng trữ trong thư viện ngày càng phong phú đa dạng về thể loại để phục vụ nhu cầu học tập của quan lại và nho sĩ. Năm 1462, Lương Như Hộc được cử giữ chức Bí thư các giám học sĩ, đồng thời trông coi thư viện. Thời Lê - Trịnh cho tu sửa Quốc Tử giám và Bí thư các đồng thời bổ dụng nhà bác học Lê Quý Đôn phụ trách thư viện Thái học (1762). Thành phần kho sách của các thư viện từ cuối đời Trần cho đến thời Lê _ Trịnh bao gồm đại bộ phận là sách triết học, chính trị, lịch sử, văn học, pháp luật, y học, thủy lợi, kiến trúc, luyện kim đúc trống đồng tinh xảo, sách kỹ thuật thủ công nghiệp như nuôi tằm, dệt lụa, làm giấy...Ngoài sách khoa học kỹ thuật trong thư viện còn nhiều tác phẩm chữ Nôm ở đời Trần và Lê đã phản ánh tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần giữ nước cao cả... Thế kỷ XIX, các vua triều Nguyễn rất chú ý xây dựng thư viện như: Tàng thư lâu ở phía Tây hồ Tĩnh Tâm (1825), Tân thư viện, Tử Khuê thư viện. Qua các bản thư mục và mục lục của những thư viện này, hiện nay còn giữ ở thư viện khoa học xã hội, viện thông tin khoa học xã hội, chứng minh rằng kho sách của các thư viện còn tương đối nhiều và đang tiến hành các khâu kỹ thuật như phân loại ấn phẩm, sắp xếp sách, xây dựng mục lục... 46 Bài tựa đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu trong Việt nam văn học sử yếu của Dương Quang Hàm, tr.274 47 Tìm hiểu khoa học kỹ thuật trong lịch sử Việt nam. H.: KHXH, 1979, tr.21 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 53 Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi bọn thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, chữ quốc ngữ đã được sử dụng trong các cơ quan nhà nước, đồng thời dùng để in sách, thư viện bắt đầu bổ sung một số sách chữ quốc ngữ và sách Phương Tây bằng nguyên bản hoặc bản dịch. Năm 1874 vua Tự Đức đã cho thư viện tàng trữ 16 bộ sách phương Tây như: Vạn quốc công pháp, Bác vật tân biên, Hàn hải kim châm, Khai mỏ yếu thuật...48. Từ đây các vua triều Nguyễn mới chú ý đến sách khoa học kỹ thuật, nhưng sách khoa học kỹ thuật nhập vào thư viện vẫn còn bị hạn chế. Năm 1898, bọn thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ và lập ngay thư mục “An Nam” (Bibliographie Annamite) của A. de Bellcomhe và Barbier du Bocage. Trong thư mục này giới thiệu 257 tác phẩm, báo, tạp chí, bản thảo, bản đồ, sơ đồ nói về Việt Nam. Năm 1912 Henri Codier xây dựng thư mục quan trọng “Thư viện Đông Pháp” (Bibliographie Indosinica), trong đó giới thiệu những sách và bài tạp chí bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài xuất bản ở Đông Dương và các nước khác có liên quan đến Việt Nam, nhằm mục đích nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước ta. Kho sách của thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ có 104.000 cuốn, đại bộ phận là sách, tạp chí, bản đồ, tranh ảnh, bia đá, bản thảo, chép tay..v..v.., bao gồm các môn loại tri thức như: Lịch sử, khảo cổ, địa lý, địa chất, kinh tế.... của Việt Nam và Đông Dương. Tháng 10 năm 1919, bọn thực dân Pháp xây dựng thư viện trung tâm của Đông Dương (Nay là thư viện Quốc gia Việt Nam). Mục đích xây dựng thư viện nhằm củng cố cách thống trị, tuyên truyền tài liệu, sách báo dưới chiêu bài khai hóa văn minh, mặt khác chọn tài liệu sách báo, bản đồ về Đông dương, nhằm khai thác, vơ vét tài nguyên thiên nhiên của các nước ở bán đảo Đông Dương. Vào năm 1921, bọn thực dân Pháp giao cho thư viện thu lưu chiểu văn hóa phẩm đã in, xuất bản trên lãnh thổ Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia. Từ năm 1922 đến 1943, thư viện đã biên soạn và xuất bản thư mục thống kê đăng ký quốc gia. Kho sách của thư viện 48 Đại Nam thực lục chính biên. Quyển 66 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 54 lúc bấy giờ có 150.000 tập và 1.883 tên loại báo và tạp chí xuất bản ở Đông Dương, các nước châu Á và Pháp... Nói tóm lại, từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX, thư viện nước ta phát triển rất chậm, kho sách thư viện bị nhiều tổn thất mất mát, có khi bị phá hủy vì các cuộc chiến tranh của bọn phong kiến và đế quốc nước ngoài, các cuộc nội chiến gây nên. Thư viện nước ta xuất hiện với chức năng tàng trữ là chủ yếu, trong khi thần quyền còn chiếm ưu thế trong ý thức của nhân dân, Phật giáo, Nho giáo giữ vai trò quốc giáo trong xã hội, thì thư viện thường xuất hiện trong các cung điện nhà vua, nhà chùa, nhà chung, nhà thờ, trong các trường học.... Thư viện dưới thời Pháp thuộc chỉ nhằm một mục đích củng cố cách thống trị của bọn thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, đồng thời khai thác, vơ vét, tài nguyên thiên nhiên của đất nước ta, thực hiện cho lợi ích của đế quốc Pháp. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công cho đến nay, mục đích, phương hướng, nội dung hoạt động của các loại hình thư viện thay đổi về cơ bản. Thư viện đã thiết thực phục vụ cho chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện. Đảng và nhà nước luôn luôn quan tâm đến việc phát triển sự nghiệp thư viện ở nước ta, trong tất cả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đã khẳng định vai trò, tác dụng của sách báo và thư viện trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1930 - 1945 và từ năm 1945 đến nay. Đặc biệt là nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 3 (1960), đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã nêu rõ: “Phát triển hệ thống thư viện từ trung ương đến tỉnh, thành phố, huyện và cơ sở”. Xây dựng thói quen đọc sách báo trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của mỗi người dân dưới chế độ mới.49 Trong văn kiện hội nghị trung ương lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khóa VII (1993), nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt đã ghi: “Khôi phục và phát triển hệ thống từ trung ương đến cơ 49 Đảng CSVN.- Báo cáo chính trị của BCH TƯ tại Đại hội đại biểu toán quốc lần thứ IV.- H.: “Sự thật”, 1977, tr.125 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 55 sở. Xây dựng thư viện quốc gia có tầm cỡ, đáp ứng được yêu cầu phát triển trí tuệ của nhân dân, yêu cầu nghiên cứu khoa học và văn hóa văn nghệ”50. Trong nghị quyết đã khẳng định mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài trong thời kỳ đổi mới phát triển kinh tế - xã hội , tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại có chọn lọc, ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nghị quyết lưu ý đến vấn đề cực kỳ quan trọng phải có quy định nghiêm ngặt bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc, chống thâm nhập vào nước ta những tác phẩm xấu độc hại. Nhìn lại 50 năm dưới chính quyền dân chủ nhân dân nhà nước ta đã ra nhiều sắc lệnh, quyết định, chỉ thị về công tác thư viện: _ Sắc lệnh 13/CP ngày 8-9-194551. Nội dung cơ bản của sắc lệnh là tập trung hóa sự nghiệp thư viện ở Việt Nam do nhà nước tổ chức, chỉ đạo và quản lý. _ Sắc lệnh 18/CP ngày 31-2-1946 về nộp lưu chiểu văn hóa phẩm52, nhằm đảm bảo cho thư viện thu nhận đầy đủ tài liệu sách báo, tạp chí các loại ấn phẩm khác xuất bản trên đất nước ta, thực hiện chức năng tàng trữ nền văn hóa của dân tộc, để hướng dẫn sử dụng, khai thác, phục vụ có hiệu quả cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. _ Quyết định 178/CP ngày 16-9-1970 của hội đồng chính phủ “Về công tác thư viện”53, đã xác định vị trí và tầm quan trọng của thư viện và tủ sách góp phần tích cực vào thắng lợi chung của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển văn hóa của đất nước, thể hiện trên các mặt tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chiến đấu và đời sống. Quyết định đã nêu lên tăng cường sự lãnh đạo của nhà nước từ trung ương đến địa phương đối với công tác thư viện, nhấn mạnh phương 50 Đảng CSVN. Văn kiện hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khoá VII.H.: 1993, tr.57 51 Trích công báo 1945. tr.8 52 Thư viện học đại cương.- H.: ĐHTH, 1983, tr.198-203 53 Luật lệ văn hoá và thông tin. H.: Bộ Văn hoá, 1977, tr.287-291 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 56 hướng phát triển sự nghiệp thư viện trước mắt và lâu dài ở nước ta, quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của hệ thống thư viện khoa học và hệ thống thư viện phổ thông, tổ chức đào tạo cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất cho các thư viện..., đây là quyết định có tính chất tổng hợp xác định đường lối, chính sách xây dựng và phát triển hệ thống thư viện ở Việt Nam. Hiện nay bộ Văn hóa thông tin đã thành lập ban dự thảo “Pháp lệnh về thư viện” được sự giúp đỡ của các bộ phận chuyên gia Văn phòng quốc hội, Văn phòng nhà nước, Văn phòng chính phủ, Bộ tư pháp và các cơ quan chức năng khác tham gia góp ý kiến. Để cho sự nghiệp thư viện góp phần tích cực, có hiệu quả pháp triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước, dự thảo “Pháp lệnh về thư viện” nhằm xây dựng, củng cố phát triển hệ thống thư viện từ trung ương đến cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tầng lớp nhân dân sử dụng tài liệu của các thư viện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân lực cho đất nước. Để xác định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế trong việc xây dựng, tổ chức hoạt động và quản lý nhà nước, căn cứ vào điều 33 và điều 91 của hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, pháp lệnh này quy định về tổ chức, hoạt động, quản lý các thư viện. Dự thảo “Pháp lệnh về thư viện”54 gồm 5 chương, 26 điều: _ Chương I: Những quy định chung. _ Chương II: Tổ chức và hoạt động của các thư viện _ Chương III: Quản lý nhà nước về thư viện. _ Chương IV: Khen thưởng và xử lý vi phạm. _ Chương V: Điều khoản thi hành. Dưới ánh sáng của các nghị quyết, sắc lệnh, quyết định của Đảng và nhà nước là cơ sở pháp lý thúc đẩy sự nghiệp 54 Dự thảo pháp lệnh về thư viện. Vụ thư viện Bộ Văn hoá thông tin. 1995, 7 trang PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 57 thư viện ở nước ta phát triển nhanh chóng. Ví dụ: năm 1954 toàn miền Bắc có 8 thư viện, tổng số sách là 314.700 bản. Đến năm 1965 toàn miền Bắc có 105 thư viện, tổng số sách là 2.557.000 bản sách, hàng nghìn tủ sách được xây dựng ở các địa phương55 , tính trong khoảng 10 năm số lượng thư viện tăng gấp 14 lần, số lượng sách tăng 8 lần. Năm 1975 toàn miền Bắc có 235 thư viện, trong đó có 3 thư viện lớn ở trung ương với kho sách là 3.840.000 bản, phục vụ cho gần 1 triệu lượt người đọc56. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp thư viện Việt Nam bước vào một giai đoạn mới: giai đoạn xây dựng và phát triển mạng lưới thư viện trong phạm vi cả nước, thiết thực phục vụ cho hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội hệ thống thư viện đã cung cấp thông tin tư liệu về khoa học kỹ thuật phục vụ có hiệu quả cho các cơ quan nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai; cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh; cho các cơ quan giáo dục và đào tạo, góp phần tích cực thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. II.1.4 Hệ thống thư viện Việt Nam Theo quyết định 178/CP ngày 16-9-1970 của hội đồng chính phủ về công tác thư viện đã nêu rõ: thư viện Việt Nam phân chia thành 2 loại hình thư viện phổ thông và thư viện khoa học. II.1.4.1 Thư viện phổ thông: Mục đích của thư viện phổ thông là góp phần giáo dục chính trị tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, nâng cao dân trí, bồi dưỡng trình độ văn hóa - kỹ thuật cho nhân dân lao động, xây dựng con người mới phát triển 55 Theo số liệu của Tổng cục thống kê: “30 năm phát triển kinh tế và văn hoá của Nước Việt nam dân chủ cộng hoà”.-H.: “Sự thật” 1978, tr.160 56 Luật văn hoá và thông tin. H.: Bộ Văn hoá, 1977, tr.307-310 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 58 toàn diện, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần hợp tác, hữu nghị và phát triển với các nước trong khu vực và thế giới, trên cơ sở bình đẳng, không xâm phạm công việc nội bộ của nhau. Nhiệm vụ của thư viện phổ thông là phục vụ sách báo cho quảng đại quần chúng nhân dân lao động trong cả nước, thực hiện sách đi tìm người đọc, hướng dẫn nghiệp vụ cho các thư viện và tủ sách cơ sở thuộc địa phương mà thư viện phụ trách. Đối tượng phục vụ của thư viện phổ thông là: công nhân viên chức, nông dân, bộ đội, học sinh, thầy giáo, kỹ sư, thiếu nhi, cán bộ hưu trí, tất cả nhân dân nông thôn và thành phố, nơi mà thư viện tổ chức phục vụ. Kho sách của thư viện phổ thông mang tính chất tổng hợp và phổ biến kiến thức, do đó nội dung kho sách cần có tất cả các ngành khoa học: tự nhiên, xã hội, nhân văn, khoa học tư duy...Mỗi thư viện cần lựa chọn tỉ mỉ những tài liệu sách báo phù hợp với trình độ văn hóa, nghề nghiệp sản xuất, thỏa mãn yêu cầu cho đại đa số độc giả của thư viện mình, đặc biệt chú ý đến tài liệu kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, cải tiến kỹ thuật, công nghệ để giúp cán bộ các ngành công nghiệp, nông nghiệp hoàn thiện quá trình sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống cho nhân dân lao động. Thư viện phổ thông bao gồm hai nhóm: thư viện phổ thông để cho người lớn và thư viện phổ thông phục vụ thiếu nhi. a/ Thư viện phổ thông để cho người lớn bao gồm: Thư viện xã, thư viện huyện, thư viện thành phố, khu phố, thị trấn, thư viện công đoàn (Các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường...) b/ Thư viện phổ thông để cho thiếu nhi bao gồm: Thư viện thiếu nhi của tỉnh, thành phố, thị xã, thị trấn, thư viện các trường phổ thông cấp 1, 2, 3 thuộc bộ giáo dục và đào tạo. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 59 Các thư viện phổ thông xây dựng theo quy mô thích hợp với khả năng kinh tế của các địa phương, nhưng trước hết phải đảm bảo ba tiêu chuẩn quan trọng: _ Có trụ sở và phương tiên tối thiểu để phục vụ bạn đọc. _ Được ủy ban nhân dân địa phương lãnh đạo và cấp kinh phí hoạt động nằm trong kế hoạch xây dựng văn hóa. _ Có cán bộ chuyên trách (Theo quy chế về thư viện phổ thông do bộ Văn hóa ban hành). Thư viện phổ thông Việt Nam là loại hình thư viện hoàn toàn mới trong lịch sử phát triển thư viện xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vàonhiệm vụ, chức năng, mục đích, thư viện phổ thông Việt Nam khác hẳn thư viện công cộng đại chúng của các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại. Trong thư viện học tư sản phủ nhận vai trò giáo dục của thư viện công cộng, chỉ khẳng định chức năng giải trí là chủ yếu. Kinh nghiệm tổ chức sự nghiệp thư viện ở Việt Nam là quá trình phát triển và củng cố các thư viện phổ thông đã bác bỏ quan điểm của các nhà thư viện học tư sản về chức năng “Văn hóa đơn thuần” của thư viện không liên quan đến đời sống chính trị và kinh tế - xã hội của đất nước. Về chức năng giáo dục và trau dồi kiến thức của thư viện phổ thông bao gồm không chỉ những thực hiện văn hóa - giáo dục mà cả hoạt động phục vụ hoàn thiện nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh đặc điểm của thư viện phổ thông, bà N.C. Crupxcaia đã viết: “Thư viện phổ thông (Thư viện đại chúng) không thể và không được biến thành một tổ chức quan liêu, phải trở thành trung tâm văn hóa giàu sức sống; Điều đó đòi hỏi cán bộ của thư viện phổ thông phải đi đúng đường lối quần chúng, hoạt động trong quần chúng, biết những nhu cầu, hứng thú của họ, làm thức tỉnh tính tự lập của bạn đọc, tiến hành hướng dẫn quần chúng sử dụng sách báo rộng rãi trong hoạt động của mình”57. Những luận điểm này của bà đã 57 N.C. Crupxcaia.- Bàn về sự nghiệp thư viện. Tuyển tập. M.: 1957, tr.310 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 60 vạch ra phương hướng hoàn toàn mới cho sự phát triển thư viện phổ thông ở nước ta trong giai đoạn mới của Cách mạng, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ đổi mới đất nước. Thư viện phổ thông phục vụ người lớn gồm có thư viện phục vụ nhân dân nông thôn và thư viện phục vụ nhân dân thành phố. a/ Thư viện phục vụ nhân dân nông thôn: Trong nhiều nghị quyết của Đảng đã nêu: cùng với giai cấp công nhân, nông dân lao động là đội quân chủ lực, xây dựng chủ nghĩa xã hội, công tác vận động nông dân tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người mới ở nông thôn. Thư viện phổ thông phục vụ nhân dân nông thôn ở nước ta trong thời gian qua và hiện nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đóng vai trò hết sức quan trọng vì nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm đa số trong dân số, là lực lượng sản xuất vô cùng to lớn trong nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Mạng lưới xây dựng thư viện nông thôn gồm: _ Thư viện xã: Khái niệm về thư viện xã (Thư viện hợp tác xã). Tổ chức quản lý hành chính xã là đơn vị hành chính thống nhất là cơ sở của chính quyền nhà nước, có nhiệm vụ thực hiện mọi chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên giao. Theo quan điểm của chúng tôi gọi thư viện xã là chính xác, bởi vì nghị quyết 24 của trung ương Đảng đã phân chia 4 cấp quản lý hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Phân cấp quản lý nhằm mục đích lãnh đạo thống nhất, để đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và quốc phòng an ninh địa phương. Mỗi cấp đều có tổ chức Đảng , chính quyền , Đoàn thể, và quản lý kinh tế, vì vậy các tổ chức văn hóa, y tế, xã hội, đều phải gắn liền với cấp quản lý hành chính đó. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 61 Thư viện xã ở nước ta bắt đầu xây dựng từ năm 1960 gắn liền với phong trào hợp tác hóa nông thôn. Thư viện xã do ủy ban nhân dân xã thành lập, tổ chức và lãnh đạo, phải được ủy ban nhân dân huyện chuẩn y. Tiêu chuẩn của thư viện xã phải có kho sách 1000 bản trở lên, có trụ sở và thiết bị cần thiết. Cán bộ phụ trách thư viện xã do ủy ban nhân dân xã bổ nhiệm, được phòng văn hóa huyện chuẩn y, chế độ phụ cấp do ban quản trị hợp tác xã cấp. Thư viện có nội quy hoạt động:giờ phục vụ trong ngày, tuần, sự luân chuyển sách báo, bảo quản tài sản, sách báo..... Đối tượng độc giả của thư viện xã gồm: cán bộ quản lý hợp tác xã, cán bộ chuyên môn sản xuất nông nghiệp (Trồng trọt, chăn nuôi, trồng rau, bảo vệ thực vật...), công nhân cơ khí nông nghiệp, cán bộ hưu trí, cán bộ trí thức công tác ở nông thôn (Giáo viến cấp 1, 2, bác sĩ, kỹ sư, kỹ thuật viên...), xã viên hợp tác xã. Ngoài ra thư viện xã còn phục vụ cho thiếu niên và thanh niên học xong trung học về sản xuất. Kho sách của thư viện xã phải bổ sung đầy đủ sách báo khoa học phổ thông, những tác phẩm văn học, nghệ thuật mới nhất, những sách về xã hội chính trị, sách nâng cao trình độ văn hóa - kỹ thuật, sách phục vụ sản xuất, những kinh nghiệm tiên tiến, cải tiến kỹ thuật nông nghiệp... Kỹ thuật của thư viện xã, cần bổ sung sách mới nhất hàng tháng, phải có sở thống kê đăng ký cá biệt, có mục lục chữ cái, hoặc phân loại theo phân loại thập phân (Hình thức mục lục có thể bằng tờ rời treo ở tường, từng quyển để ở bàn, hoặc làm ô phiếu) phân loại thống nhất O: tổng loại 1: CN. Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 2: Khoa học tự nhiên 3: Khoa học kỹ thuật 4: Nông. lâm nghiệp 5: Khoa học y học NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 62 6: Xã hội chính trị 7: Văn hóa, khoa học, giáo dục 8: Văn học nghệ thuật 9: Thư mục tra cứu Hình thức tổ chức hoạt động của thư viện xã: tổ chức phòng mượn, phòng đọc sách tại chỗ, có tranh bị cần thiết, bàn ghế giá tủ... Có từ 3 đến 5 loại tạp chí, họa báo mới, để độc giả sử dụng hàng ngày, tổ chức các cuộc điểm sách, kể chuyện sách mang tính chất quần chúng, tuyên truyền giới thiệu sách thích ứng với sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp của từng địa phương như: đọc to nghe chung, giới thiệu sách trên loa truyền thanh, đọc sách đêm khuya qua loa truyền thanh. Lúc chiếu bóng, trong các cuộc họp đội sản xuất, ngoài đồng ruộng lúc giải lao, giới thiệu trên bảng đen, thi vui đọc sách... nhằm mục đích thu hút đọc giả sử dụng sách báo có tác dụng, hiệu quả trong lao động sản xuất và giải trí, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân lao động. Hàng năm phải kiểm kê tài sản sách báo của thư viện và lập kế hoạch đầu năm cho thư viện _ Thư viện huyện: Huyện hiện nay với tư cách là đơn vị hành chính có trách nhiệm lãnh đạo các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, đặc biệt chú trọng chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở các xã và xây dựng các nông trường, công trường, xí nghiệp, nhà máy, các khu chế xuất thuộc phạm vi quản lý của huyện. Do đó cấp huyện có vị trí vô cùng quan trọng, trong các tài liệu chỉ đạo của Đảng đã nêu rõ: Xây dựng huyện thành đơn vị sản xuất có tính chât liên hiệp nông, công nghiệp là vấn đề then chốt. Huyện là địa bàn kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, nông dân với công nhân. Nhà nước với nhân dân, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể. Huyện là địa bàn xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa moói và con người mới ở nông thôn, bảo đảm đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân58. 58 Báo cáo chính trị của BCHTW ở Đại hội Đảng lần thứ IV.-H.: “Sự thật”, 1977, tr.38 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 63 Thư viện huyện là cơ quan văn hóa giáo dục, là trung tâm thông tin thư viện phục vụ sản xuất nông nghiệp và công nghiệp của địa phương, dùng tài liệu sách báo tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước: nâng cao trình độ chính trị, văn hóa - kỹ thuật, giáo dục tình cảm, đạo đức xã hội chủ nghĩa, thẩm mỹ cho các tầng lớp nhân dân lao động và cán bộ trong huyện, không ngừng nâng cao năng suất lao động trong sản xuất, đời sống, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện, làm cho bộ mặt nông thôn nhanh chóng đổi mới phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay. Với huyện là một đơn vị hành chính quan trọng chỉ đạo phát triển kinh tế văn hóa toàn diện, vì vậy trong nghị quyết Đại hội IV đã xác định chúng ta phải xây dựng cho cả nước 500 huyện, đây là cơ sở khách quan để phát triển thư viện huyện. Hiện nay đã có 254 thư viện huyện, còn lại là tủ sách, phòng đọc sách. Bộ văn hóa đã ban hành quy chế về thư viện huyện. Trong đó đã nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, điều kiện hoạt động, cơ sở vật chất, ngân sách, biến chế cán bộ cho thư viện huyện. Ngoài ra, còn quy định thư viện huyện là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện xã, tủ sách, các thư viện khác nằm trên địa bàn của huyện. b/ Thư viện phục vụ nhân dân thành phố: * Thư viện trung tâm thành phố Là thư viện công cộng giữ vai trò chủ chốt phục vụ sách báo , cung cấp thông tin tư liệu cho nhân dân thành phố. Thư viện thành phố có kho sách đầy đủ nhất và phong phú, đa dạng, gồm nhiều bộ môn tri thức, các loại hình văn học nghệ thuật kể cả băng ghi âm, ghi hình, đĩa nhạc đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu và giải trí lành mạnh trong thời gian thư giãn của nhân dân thành phố. Trong thư viện trung tâm thành phố có phòng đọc dành riêng cho các em thiếu nhi (Nếu chưa tổ chức được thư viện thiếu nhi độc lập). NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 64 Thư viện phục vụ nhân dân thành phố bao gồm nhiều loại hình khác nhau: Thư viện trung tâm thành phố, thư viện quận, thư viện khu phố, thư viện huyện, thư viện thị trấn, thư viện thư viện xã, thư viện của các tổ chức Đảng, thư viện công đoàn... nằm trên địa bàn thành phố quản lý. Hiện nay, cả nước có 7 thư viện thành phố _ Thư viện thành phố Hà Nội. _ Thư viện thành phố Hải Phòng. _ Thư viện Quốc gia Sài Gòn cũ được cải tạo, xây dựng thành thư viện trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. _ Các thư viện thành phố như: thành phố Đà Nẵng, thành phố Thanh hóa, thành phố Hạ Long. thành phố Đà Lạt... là những trung tâm văn hóa, kinh tế, du lịch có đặc thù của địa phương với kho sách không lớn như ba thành phố kể trên. Thư viện trung tâm thành phố được thành lập từ năm 1956 cho đến nay là 40 năm (Riêng thư viện thành phố Hồ Chí Minh được cải tạo và phát triển từ năm 1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng). Thư viện phục vụ nhân dân thành phố đã thực hiện 5 chức năng cơ bản của ngành văn hóa thông tin: + Giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và nhà nước + Giáo dục đạo đức, tình cảm, thẩm mỹ cho nhân dân thành phố. + Truyền bá khoa học, kỹ thuật và công nghệ. + Phục vụ vui chơi giải trí. + Giáo dục nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới, xây dựng con người mới của thành phố văn minh và thanh lịch.
| |
| | | Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: Re: NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN 5/4/2011, 8:18 pm | |
| Ví dụ: Thư viện thành phố Hà Nội đã từng bước chuyển thành thư viện khoa học tổng hợp của thủ đô. Thư viện thành phố PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 65 Hà Nội có kho sách là 152 nghìn bản (Kho đọc: 60.000, kho mượn: 23.513, kho thiếu nhi: 29.470, kho ngoại văn: 17.703, các kho khác: 21.586). Tổng số độc giả được cấp thẻ: 3039 bạn đọc (Trong đó 347 cán bộ khoa học kỹ thuật, 234 công nhân, 140 bộ đội, 1092 học sinh phổ thông, 1076 sinh viên đại học, thành phần khác là 150). Địa điểm của thư viện thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm thủ đô, thư viện thành phố Hà Nội có đầy đủ các phòng chức năng, đặc biệt là công tác địa chí, có phòng máy tính đang từng bước thực hiện tin học hóa... Nét nổi bật của thư viện thành phố Hà Nội là đã chỉ đạo phong trào đọc sách sâu rộng trong toàn thành phố. Xây dựng 155 tủ sách cho hợp tác xã nông nghiệp; 94 tủ sách cho các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp; 1000 túi sách lưu động cho các phân xưởng đội sản xuất; mở hàng trăm lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tủ sách, gồm hơn 10000 người tham gia, chính những anh chị em này đã duy trì và giữ vững phong trào đọc sách và làm theo sách khoa học kỹ thuật, sách người tốt việc tốt trong nhân dân. Trong hơn 40 năm qua thư viện thành phố Hà Nội đã tổ chức hàng nghìn cuộc giới thiệu sách, tổ chức các cuộc thi đọc sách tìm hiểu về Đảng, về các tổ chức quần chúng nhân dịp các ngày lễ lớn: 50 năm thành lập nước, 65 năm thành lập Đảng... Đặc biệt năm 1968 vận động toàn dân đọc sách “Người tốt việc tốt” do Bác Hồ đề xuất, đã giới thiệu cho nhân dân thành phố 725 buổi với hơn 107.100 người nghe. Ngoài ra còn tiến hành vận động đọc các cuốn sách “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Bám đất”.. đối với người lớn, phát động thanh niên đọc các cuốn “Phùng Mã Luân”, kết hợp với phong trào “Ba xây ba chống”, trong thiếu nhi đọc cuốn “Sau bức màn thần bí”, “Đuờng vào khoa học”, “Người Hà Nội thanh lịch”... Trong phong trào chống Mỹ cứu nước đã tập trung chỉ đạo đọc những cuốn như: “Ngọn lửa gang”, “Con chim đầu đàn”, “Từ tuyến đầu tổ quốc”, “Sống như anh”, “Bất khuất”, “Những lá thư từ thôn Bùi”, “Người mẹ cầm súng”... Theo thống kê của thư viện thành phố Hà Nội đã có 230 nghìn người đọc các cuốn sách trên. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 66 Trong những năm gần đây thư viện thành phố Hà Nội đã tập trung giới thiệu sách đáp ứng nhu cầu thiết yếu về đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng con người mới, nền kinh tế mới của thủ đô, bồi dưỡng đạo đức, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, thực hiện sự đổi mới vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Qua kinh nghiệm hoạt động phong phú của thư viện thành phố Hà Nội, chúng ta có thể rút ra kết luận bước đầu như sau: _ Thư viện thành phố là thư viện vừa mang tính chất phổ thông vừa mang tính chất khoa học tổng hợp cả về thành phần kho sách và các mặt hoạt động của nó. Đối tượng độc giả của thư viện kể cả trình độ học vấn phổ thông và trí thức sống và làm việc, học tập, nghiên cứu, sản xuất trong thành phố _ Thư viện thành phố là cơ quan văn hóa, giáo dục ngoài nhà trường, là trung tâm thông tin khoa học, kỹ thuật và công nghệ của thành phố, có trách nhiệm tổ chức, xây dựng phong trào đọc sách báo có hiệu quả, có chất lượng và khai thác tối đa tư liệu phục vụ cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, có kế hoạch vận động nhân dân thành phố sử dụng thư viện có hệ thống, thực hiện tốt chức năng tàng trữ, luân chuyển sách đúng đối tượng, đúng yêu cầu bạn đọc. _ Thư viện thành phố thực hiện chức năng là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho tất cả các loại hình thư viện phổ thông trong thành phố, không kể chúng thuộc cơ quan, tổ chức nào. * Thư viện công đoàn: Hệ thống duy nhất phục vụ thư viện cho nhân dân thành phố bao gồm cả thư viện công đoàn. Thư viện công đoàn phục vụ độc giả trực tiếp sản xuất trong nhà máy, xí nghiệp công nghiệp, trên những công trường, lâm trường... Thư viện công đoàn kết hợp chặt chẽ với thư viện kỹ thuật, tổ chức phục vụ bạn đọc đáp ứng yêu cầu sản xuất, nâng cao tay nghề, bậc thợ, dạy nghề cho công nhân. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 67 Thư viện công đoàn trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, các nhà văn hóa, câu lạc bộ, các trường học, các bệnh viện.... Nội dung công tác của chúng mang tính chất tổng hợp về nhiều mặt nó giống như thư viện phổ thông, phục vụ cho tất cả cán bộ, công nhân viên và cả nhân dân khu vực mà thư viện có trụ sở đóng trên địa bàn thành phố. * Thư viện các tổ chức Đảng: Thư viện phục vụ nhân dân thành phố, trong đó có nhiều thư viện trường Đảng ở trung ương đến địa phương trong cả nước, thư viện trường Đảng do ban chấp hành Đảng bộ địa tỉnh, thành phố, huyện tổ chức. Đối tượng độc giả của thư viện là cán bộ giảng dạy, học viên trường Đảng, cán bộ nghiên cứu, báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ tuyên giáo, cán bộ tuyên truyền và cổ động... Thành phần kho sách bao gồm sách kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, sách nghiên cứu lý luận, sách xã hội chính trị, tài liệu chỉ đạo của Đảng và nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, khoa học kỹ thuật và công nghệ, về giáo dục, văn hóa nghệ thuật, y tế, quốc phòng...., các loại hình sách tra cứu... Nói tóm lại thư viện trường Đảng đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ trung, sơ cấp của Đảng ở các thành phố, tỉnh, huyện. Ngoài những thư viện phục vụ nhân dân thành phố đã nêu trên, chúng ta cần chú ý đến loại hình thư viện thiếu nhi trong thành phố, thị xã, thị trấn. * Thư viện thiếu nhi: Xây dựng hệ thống thư viện thiếu nhi là vấn đề hết sức quan trọng của sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, sách báo là phương tiện phát triển con người toàn diện, thư viện sẽ thỏa mãn những yêu cầu đọc sách đa sạng và phong phú của các em. a/ Vị trí của thư viện thiếu nhi : Thiếu nhi là mầm non của đất nước, trước mắt các em có nhiệm vụ “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, các em đã đóng góp NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 68 nhiều việc hữu ích cho gia đình và xã hội. Trong tương lai các em là người chủ xã hội, là người giữ nước và xây dựng tổ quốc giàu đẹp. Bác hồ đã dạy “Công tác giáo dục thiếu niên nhi đồng rất quan trọng, đó là nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho đất nước”59 Trong di chúc người đã căn dặn: chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết. V.I. Lênin rất quan tâm đến việc thu hút thiếu nhi vào thư viện đọc sách, vấn đề này đã thể hiện trong tác phẩm “Chúng ta có thể làm gì cho nền giáo dục quốc dân”(1913)60. Bà N.C. Crupxcaia hết sức chú ý đến sự nghiệp thư viện thiếu nhi, bà đấu tranh chống quan điểm coi nhẹ, xem thường sách báo đối với thiếu nhi và việc tổ chức thư viện thiếu nhi61. Những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và nhà nước đã chỉ rõ công tác xuất bản sách cho thiếu nhi và việc tổ chức đọc sách cho các em. b/ Giáo dục phương pháp đọc sách và sử dụng thư viện cho thiếu nhi: Công tác giáo dục thiếu nhi là quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi phải có phương pháp sư phạm. Calinin nhà giáo dục học nổi tiếng đã viết: “Giáo dục là một trong những vấn đề phức tạp nhất. Giáo dục không những là một khoa học, mà còn là một nghệ thuật”... Tuổi nhỏ có tâm hồn trong sáng, nhận thức của các em còn non cho nên dễ tiếp thu lẽ phải, cũng dễ tiêm nhiễm thói hư tật xấu. Hơn nữa, kiến thức các em thu nhận được thời thơ ấu sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong cả cuộc đời. Sách là món ăn tinh thần của thiếu nhi, mở rộng sự hiểu biết, vốn sống, kinh nghiệm, nguồn vui, giàu trí tưởng tượng, các em sẽ cùng bay bổng với chiếc thảm bay, chiếc cối xay gió kỳ lạ, những thảo nguyên bao la khoác lên tấm áo ngào ngạt hoa thơm cỏ lạ đủ màu sắc rực rỡ, có những chú thỏ tinh ranh, bác gấu ôn hòa biết nói... trong những tranh sách cổ tích, thần thoại... Giáo dục các em phương pháp đọc 59 Hồ Chủ tịch.- Thư gửi cho thiếu nhi. Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. T.I.-H.: Sự thật, 1960, tr.69 60 V.I. Lênin.- Nói và viết về thư viện. H.: 1963, tr.43 61 N.C. Crupxcaia.- Bàn về thư viện và sách thiếu nhi.-H.: “Văn hoá”, 1963, tr.86 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 69 từ dễ đến khó, từ đơn giản cho đến phức tạp, đọc có suy nghĩ, đọc có ghi chép những điều cần thiết, đọc sách phù hợp với lứa tuổi, đọc có phương pháp: đọc lướt, đọc nhanh, đọc chậm, đọc có mục đích để giúp các em phát triển năng khiếu, đi sâu vào một lĩnh vực khoa học nào đó mà các em thích nhất. Hướng dẫn cho thiếu nhi phưong pháp chọn sách hay, sách tốt qua hệ thống mục lục của thư viện... c/ Xây dựng mạng lưới thư viện phục vụ thiếu nhi: Thư viện thiếu nhi là cơ quan văn hóa giáo dục ngoài nhà trường, có trách nhiệm góp phần tích cực giáo dục các em phát triển toàn diện. Cần xây dựng mạng lưới thư viện thiếu nhi có kế hoạch, rộng khắp trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng cho đến vùng sâu vùng xa... Các loại hình thư viện thiếu nhi: - Thư viện thiếu nhi độc lập: thư viện thiếu nhi độc lập thường được thành lập theo nguyên tắc khu vực. Mạng lưới này bao gồm thư viện thiếu nhi thành phố, thư viện thiếu nhi ở trung tâm thị xã, thị trấn, quận, huyện... Thư viện thiếu nhi độc lập có kho sách từ 2000 bản trở lên, chủ yếu là sách thiếu nhi, và một số sách người lớn phù hợp với việc giáo dục thiếu nhi. Tổ chức kho sách của thư viện thiếu nhi độc lập bao gồm tổng kho, kho đọc, kho mượn, sắp xép theo các môn loại chủ yếu. tổ chức các hệ thống mục lục, biên soạn thư mục giới thiệu sách thiếu nhi, tổ chức thường xuyên triển lãm sách mới, các hình thức tuyên truyền sách như tổ chức dạ hội, gặp gỡ các nhà văn viết sách thiếu nhi, tổ chức kể chuyện, mạn đàm sách, du lịch, tham quan... Hệ thống thư viện thiếu nhi độc lập được sự chỉ đạo nghiệp vụ của hệ thống công cộng nhà nước. - Bộ phận thư viện thiếu nhi trong thư viện người lớn: Bộ phận thư viện thiếu nhi trong thư viện người lớn có tầm quan trọng đặc biệt ở những nơi không có thư viện thiếu nhi độc lập. Trong điều kiện hiện nay của nước ta chưa có thể tổ chức hệ thống thư viện thiếu nhi từ trung ương đến địa phương, cho nên trong các thư viện người lớn cần tổ chức NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 70 phòng đọc, phòng mượn sách cho các em thiếu nhi để thỏa mãn yêu cầu đọc sách cho mọi lứa tuổi của các em. Hiện nay các thư viện tỉnh, huyện đều có tổ chức phòng đọc sách cho thiếu nhi - Thư viện thiếu nhi trong nhà trường: thư viện thiếu nhi trong nhà trường gọi tắt là thư viện trường học. Thư viện trường học là một bộ phận cấu thành hữu cơ của các trường phổ thông cấp I, II, III. Đặc diểm cơ bản của thư viện trường học là phục vụ cho một đối tượng xác định, có trình độ học vấn đồng đều, thư viện trường học giúp đỡ tích cực cho quá trình học tập của các em thiếu nhi. Điều đó quyết định tính chất kho sách và hình thức tổ chức phục vụ độc giả phải tính đến yêu cầu giảng dạy trong nhà trường. Trong các thư viện trường phổ thông cấp I, II, III cần đưa vào kế hoạch giảng dạy kiến thức thư viện cho học sinh, đây là phương tiện hết sức quan trọng để bồi dưỡng cho các em phương pháp đọc sách, sử dụng sách và thư viện. Trong trường phổ thông thầy giáo, cô giáo và cán bộ thư viện cần tổ chức điểm sách có hệ thống, tổ chức đọc sách ngoại khóa cho các em. Theo quan điểm của chúng tôi, hiện nay muốn đẩy mạnh phong trào đọc sách có hệ thống, hỗ trợ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong các trường học phổ thông, cần biên soạn cuốn: “Sổ tay thư viện” nhằm mục đích phổ biến kiến thức về thư viện thư mục cho các em bằng hình thức hết sức hấp dẫn, dễ hiểu, trình bày nghệ thuật đọc sách, phương pháp lựa chọn sách và sử dụng thư viện. II.1.4.2: Hệ thống thư viện khoa học : Theo quyết định 178/CP của hội đồng chính phủ (1970) đã quy định: Hệ thống thư viện khoa học Việt Nam có nhiệm vụ phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy và chỉ đạo sản xuất. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 71 Thư viện khoa học hiện đại có những chức năng sau đây: 1/ Đảm nhiệm vai trò thư viện trung tâm trong hệ thống phục vụ thư viện, thư mục cho khoa học và sản xuất. Thư viện khoa học thực hiện chức năng tàng trữ ấn phẩm: hồ sơ, tài liệu kỹ thuật trong sản xuất, báo cáo về những công trình nghiên cứ kho học, các bản thiết kế mẫu, tài liệu thông tin dữ kiện, những tài liệu khoa học từ cổ đại cho đến hiện đại, các vật liệu mang tin hiện đại: Microphim, micro phiếu, băng ghi âm, ghi hình, đĩa từ, CD-Rom (Compact disk read only memory), tổ chức sử dụng và khai thác tư liệu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát triển khoa học và công nghệ. 2/ Thông tin thư viện thư mục phục vụ cho các nhà bác học và chuyên gia bao gồm: _ Sử dụng đầy đủ phương pháp và hệ thống ấn phẩm thông tin thường kỳ nhằm thông báo nhanh nhất về những tài liệu mới nhất _ Phối hợp và phát triển công tác tra cứu để sử dụng rộng rãi nguồn thông tin của nhiều thư viện. _ Xây dựng mục lục liên hợp giữa các thư viện, trước hết là tài liệu, sách báo nước ngoài. _ Tổ chức hệ thống mượn giữa các thư viện. _ Cơ giới hóa và tự động hóa hệ thống tìm tư liệu. 3/ Tuyên truyền giới thiệu những thành tựu khoa học trong các tầng lớp nhân dân đông đảo. Hệ thống thư viện khoa học bao gồm: thư viện khoa học tổng hợp, thư viện đa ngành và chuyên ngành. * Thư viện khoa học tổng hợp: Những cơ sở khoa học để khẳng định loại hình thư viện khoa học tổng hợp: 1.Về đối tượng bạn đọc: Phục vụ nhiều thành phần độc giả khác nhau., không chỉ phục vụ cho các nhà bác học. cán bộ chuyên môn, sinh viên, nghiên cứu sinh... mà còn phục vụ NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 72 cho mọi công dân Việt Nam cần được nghiên cứu sách và sử dụng thư viện. 2. Thành phần kho sách: Kho sách của thư viện khoa học tổng hợp bao gồm đầy đủ các môn loại tri thức về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, các loại ấn phẩm đặc biệt, kể cả những tài liệu không xuất bản. Nhờ có tính chất đa dạng, đa ngành của kho sách thư viện khoa học tổng hợp đảm bảo điều kiện sử dụng đồng bộ kho sách, đặc biệt là các ngành khoa học tiếp giáp nhau. Thí dụ: y học và điện tử, luyện kim và hóa học, nông học và sinh vật học, khối các khoa học vũ trụ..... 3. Thư viện khoa học tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với thư viện phổ thông công cộng, hướng dẫn nghiệp vụ, biên soạn thư mục cho thư viện phổ thông. Thư viện khoa học tổng hợp bao gồm: Thư viện quốc gia và thư viện tỉnh. - Thư viện quốc gia : Thư viện quốc gia là thư viện khoa học tổng hợp công cộng lớn nhất, là trung tâm thông tin - thư viện trong cả nước. Thư viện quốc gia tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc, tảng trữ sách báo trong nước và nước ngoài đầy đủ nhất, là trung tâm của những mối quan hệ giữa các hệ thống thư viện trong nước và quan hệ quốc tế. Thư viện quốc gia đứng đầu hệ thống thư viện công cộng nhà nước thuộc Bộ văn hóa. Thư viện quốc gia thực hiện các chức năng sau: _ Tàng trữ các ấn phẩm từ cổ đại đến hiện đại, thu nhận lưu chiểu văn hóa phẩm theo sắc lệnh 18/CP của chính phủ quy định. _ Chức năng luân chuyển sách báo trong toàn quốc. _ Chức năng trung tâm thông tin thư viện thư mục. _ Trung tâm nghiên cứu về thư viện học và thư mục học. _ Trung tân hướng dẫn nghiệp vụ. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 73 _ Trung tâm trao đổi sách báo với nước ngoài: Việc trao đổi sách báo với nước ngoài của thư viện quốc gia có ý nghĩa quốc tế to lớn về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa... nhờ trao đổi sách báo tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc trong khu vực và thế giới. Mặt khác đây là nguồn bổ sung sách nước ngoài rất tốt, vừa tiết kiệm được ngoại tệ, vừa có được những bộ sưu tập rất quý, có giá trị khoa học mà không thể mua được. Hiện nay thư viện quốc gia việt Nam đang tiến hành chỉ đạo công tác tin học hóa hệ thống thư viện công cộng nhà nước, cung cấp trang thiết bị máy vi tính cho 53 tỉnh, thành phố trong cả nước do nhà nước câp kinh phí, thư viện quốc gia chịu trách nhiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ về kiến thức tin học, xây dựng cơ sở dữ liệu và khai thác CSDL trong mạng. Cài đặt các CSDL ở các tỉnh theo chương trình CDS/ ISIS 3.0 do Unesco cấp miễn phí. Thao tác trên cơ sở hệ thống MS-DOS, áp dụng trong việc nhập worksheet và xây dựng CSDL. Trung tâm máy tính của thư viện quốc gia (Máy chủ) được sự hợp tác và tài trợ của thư viện quốc gia Úc. Một số thư viện tỉnh được trang bị máy vi tính tương thích IBMPC với cấu hình sau: bộ sử lý 386, ổ cứng 120Mb, bộ nhớ 4 Mb Ram, monito VGA, máy in FX-1070. Một số thư viện tỉnh và thành phố lớn còn được trang bị modem. Để phát triển hệ thống mạng thông tin công cộng trong cả nước, mạng diện rộng WAN (Wide area network) cần khắc phục một số vấn đề kỹ thuật: sự tương tác của trạm đầu cuối, hồ sơ mục lục, đường dây truyền thông, giao thức (Protocal) lệnh, tìm kiếm, trả lời, kiểu màn hình ra và giao diện hội thoại người máy... Tóm lại, cơ sở hạ tầng truyền thông của nước ta có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của hệ thống mạng thông tin thư viện công cộng nhà nước thuộc bộ Văn hóa, trung tâm chỉ đạo hướng dẫn mạng là thư viện Quốc gia Việt Nam. - Thư viện tỉnh: Trong thời kỳ cải cách nền hành chính quốc gia, tỉnh là đơn vị hành chính đặc biệt quan trọng, việc đổi mới cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường, việc phân cấp quản lý NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 74 giữa trung ương và tỉnh đã tăng cường khả năng lãnh đạo toàn diện của tỉnh. Tỉnh đóng vai trò, vị trí vô cùng to lớn trong công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá, quốc phòng của địa phương. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV đã nêu rõ: Xây dựng mỗi tỉnh, thành phố thành một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp. Cấp tỉnh, thành phố có trách nhiệm bảo đảm đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân địa phương. Do đó thư viện tỉnh là trung tâm văn hoá và khoa học kỹ thuật của địa phương, là trung tâm tàng trữ sách báo lớn nhất của tỉnh, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học, học tập của cán bộ và nhân dân trong tỉnh, đồng thời phục vụ những yêu cầu của các cơ quan Đảng, chính quyền kinh tế của tỉnh và huyện. Thư viện tỉnh là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho các thư viện huyện, thị trấn, thị xã, cơ quan, trường học ở trong tỉnh. Thư viện tỉnh có nhiệm vụ góp phần nghiên cứu tỉnh nhà, sử dụng triệt để sức sản xuất của địa phương, tuyên truyền trong nhân dân kiến thức về địa chí. Nói tóm lại trong hệ thống thư viện công cộng nhà nước thuộc bộ Văn hóa, thì thư viện tỉnh và thành phố giữ vị trí trọng yếu sau thư viện Quốc gia. Tính chất tổng hợp của thư viện tỉnh bao gồm: 1_ Thành phần kho sách 2_ Thành phần độc giả. 3_ Nội dung và phương pháp công tác. Một trong những chức năng cơ bản của thư viện tỉnh là công tác địa chí. Nội dung tư liệu địa chí của thư viện tỉnh tập trung nghiên cứu toàn diện về địa phương như: tài nguyên thiên nhiên, kinh tế, văn hóa, lịch sử, đời sống xã hội v.v...Các ấn phẩm địa chí bao gồm: tài liệu sách báo nói về tỉnh đó, không kể xuất bản ở đâu và do ai xuất bản; Tất cả những tài liệu xuất bản ngay trong địa bàn của tỉnh không kể tài liệu đó nói về vấn đề gì; Tài liệu có thể không nói về địa phương nhưng nó là nguồn tư liệu có giá trị nghiên cứu về sự phát triển văn hoá và sự nghiệp xuất bản của tỉnh. Chế độ nộp lưu chiểu văn hoá phẩm của địa phương cho thư viện PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 75 tỉnh là nguồn tài liệu địa chí tốt nhất của địa phương. Trong công cuộc đổi mới hiện nay công tác địa chí phải lấy kinh tế làm trọng tâm để nghiên cứu địa phương, nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng phát triển toàn diện. Hiện nay trong cả nước có 53 thư viện tỉnh, thành phố, với kho sách tối thiểu là 5 vạn bản, tối đa là 20 vạn bản. Mỗi thư viện tỉnh đều được trang bị một máy vi tính 386 và một modem, một máy điện thoại... Có một số thư viện được trang bị từ 2 đến 3 máy tính và từng bước nối mạng với thư viện quốc gia Việt Nam, nhằm khai thác CSDL của hệ thống mạng thông tin tư liệu thư viện công cộng nhà nước, đồng thời truy nhập CSDL của thư viện tỉnh vào mạng... * Thư viện khoa học đa ngành: Thư viện khoa học đa ngành là những thư viện lớn mang tính chất quốc gia, tàng trữ các ấn phẩm đa ngành khoa học. Ở nước ta có hai thư viện quốc gia đa ngành khoa học như: Thư viện khoa học kỹ thuật trung ương thuộc trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, thư viện đa ngành khoa học xã hội thuộc viện thông tin khoa học xã hội. Sự khác nhau của thư viện khoa học tổng hợp và thư viện khoa học đa ngành ở chỗ tính chất tàng trữ của kho sách, đối tượng độc giả, nội dung hoạt động của thư viện.... - Thư viện đa ngành về khoa học kỹ thuật Thư viện khoa học kỹ thuật trung ương tàng trữ các ấn phẩm thuộc bộ môn trí thức về khoa học tự nhiên và kỹ thuật như: công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, luyện kim, khai mỏ, năng lượng... Các ngành khoa học tự nhiên: toán, lý, hóa, công nghệ tin học, công nghệ hóa học... Kho sách của thư viện khoa học kỹ thuật trung ương có trên 50 vạn bản sách, 4500 loại tạp chí của 30 nước trên thế giới, sách ngoại ngữ chiếm 80%. Kho tạp chí gồm 130 loại tạp chí toán học, 150 loại tạp chí hoá học, 250 tên loại về sinh hoá, 320 tên về các ngành kỹ thuật và kinh tế nông nghiệp, 350 tên loại tạp chí về năng lượng, 150 tên về giao thông vận NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 76 tải... thư viện khoa học kỹ thuật trung ương được quyền nhận lưu chiểu văn hoá phẩm không trả tiền, là trung tâm tàng trữ sách báo khoa học và kỹ thuật đa ngành, là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện khoa học kỹ thuật trong cả nước. Thư viện khoa học kỹ thuật trung ương đã thực hiện tin học hóa các bộ phận chức năng như: bổ sung trao đổi, phân loại biên mục, tổ chức phục vụ bạn đọc... Để phục vụ cho khoa học và công nghệ của nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước thư viện khoa học kỹ thuật trung ương đã trao đổi tư liệu với 100 cơ quan và thư viện khoa học gồm 40 nước trong khu vực và thế giới.
| |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN | |
| |
| | | | NHÂP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |