| | NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) 5/4/2011, 8:20 pm | |
| - Thư viện khoa học xã hội: Thư viện khoa học xã hội là thư viện đa ngành về khoa học xã hội và nhân văn, là trung tâm tàng trữ sách từ cổ chí kim trong nước và ngoài nước, những tư liệu có giá trị khoa học như: Triết học, chính trị học, chính trị kinh tế học, văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, sử học, luật học, khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, giáo dục học, tâm lí xã hội, tư liệu học, thông tin học, thư viện học, lưu trữ học... Kho sách của thư viện khoa học xã hội (Viện thông tin KHXH) đến nay lên đến 30 vạn bản, hơn 1000 loại tạp chí. Trong đó có kho sách Hán Nôm là kho sách quý hiếm, có giá trị khoa học cao gồm có 3 vạn bản lập bia, các bộ sách thần tích, thần sắc... của các triều đại vua quan phong kiến. Thư viện KHXH tiếp thu kho sách của trường Viễn Đông Bác Cổ, đây là kho sách có giá trị khoa học nghiên cứu về phương đông học, có một không hai ở Châu Á, và đứng thứ 2 sau thư viện Pari (Pháp). Thư viện KHXH đã trao đổi tư liệu với 30 thư viện, cơ quan nghiên cứu và Viện hàn lâm KHXH của các nước trong khu vực và thế giới. Thư viện KHXH (Nay là Viện Thông tin KHXH) là trung tâm nghiên cứu khoa học thư viện, thư mục, là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện chuyên ngành về KHXH. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 77 Nói tóm lại, thư viện KHXH là một trong ba thư viện lớn nhất ở nước ta, thư viện KHXH & NV là thư viện đa ngành về KHXH, trực tiếp phục vụ cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, nghiên cứu sinh, học sinh trong cả nước. * Thư viện khoa học chuyên ngành Thư viện khoa học chuyên ngành khác với thư viện khoa học tổng hợp, thư viện khoa học đa ngành. Thư viện khoa học chuyên ngành chỉ phục vụ cho các nhà khoa học, các chuyên gia trong một cơ quan, một viện nghiên cứu, cho một ngành khoa học xác định, thoả mãn nhu cầu nghiên cứu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chức năng và mục tiêu hoạt động của một đơn vị quản lí nhà nước, trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng... Phần lớn các thư viện chuyên ngành còn gắn liền với cơ quan khoa học, các cơ sở sản xuất, các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan thiết kế, xây dựng... phụ thuộc vào kế hoạch chuyên môn của một ngành cụ thể. Căn cứ vào kho sách chuyên môn hoá, căn cứ vào nhiệm vụ, chức năng của của thư viện khoa học chuyên ngành chúng ta có thể phân làm hai loại: 1/ Thư viện khoa học chuyên ngành của các bộ, các ngành, các Viện nghiên cứu, các trường đại học... 2/ Thư viện chuyên ngành có tính chất phục vụ sản xuất như - thư viện kĩ thuật của các cơ quan chế tạo, thiết kế, các xí nghiệp. - Thư viện Y học Trung ương Ở nước ta đã hình thành và phát triển mạng lưới thư viện y tế từ trung ương đến các địa phương gồm: Thư viện y học trung ương, thư viện các viện, các cơ quan nghiên cứu khoa học của ngành y tế trực thuộc Bộ Y tế, thư viện các bệnh viện từ trung ương, đến các tỉnh, thành phố, quận huyện... thư viện các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, y khoa, dược khoa, các trường bổ túc bác sỹ và cán bộ quản lí, cán bộ phòng bệnh và chữa bệnh, các nhà máy, xí nghiệp thiết bị y cụ, dược phẩm... NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 78 Đứng đầu mạng lưới thư viện y tế trong cả nước là thư viện y học trung ương trực thuộc Bộ y tế; có 3 chức năng cơ bản: 1/ Trung tâm tàng trữ tài liệu sách báo về y học, dược học trong nước và nước ngoài, đồng thời có nhiệm vụ trao đổi sách báo của ngành với các nước trên thế giới. 2/ Trung tâm Thông tin-Thư viện Thư mục của toàn ngành, thường xuyên thông báo những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất trên lĩnh vực y học và dược học, những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến trong nước và trên thế giới cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, cán bộ quản lí và lãnh đạo của ngành y tế, thiết thực áp dụng những thành tựu và kinh nghiệm tiên tiến vào công tác phòng bệnh, chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. 3/ Trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ, xây dựng, củng cố, phát triển mạng lưới thư viện y học, dược học trong cả nước. 4/ Tin học hoá công tác thông tin tư liệu, xây dựng CSDL tài liệu y học và dược học có trong kho của thư viện y học trung ương. Thư viện y học trung ương có kho sách, tạp chí y học, dược học trong nước và ngoài nước đầy đủ nhất ở Việt nam, gần 90 vạn bản, hơn 1.300 loại tạp chí, thuộc 14 thứ tiếng, các luận án tốt nghiệp bác sĩ, dược sĩ cao cấp bảo vệ ở Hà Nội, các luận án TS, PTS bảo vệ ở ngoài nước, hơn 7500 luận án nước ngoài qua con đường trao đổi và tặng biếu62. Đặc biệt là ấn phẩm định kì cập nhật thông tin mới của các nước: Nga (Liên xô cũ), Trung quốc, Đức, Hungari, Rumani, Tiệp khắc, Bungari, Pháp, Anh, Mỹ, Ấn Độ...đây là các loại tạp chí chuyên môn hiện đại của ngành y học, dược học trên thế giới, có tác dụng to lớn trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học y tế ở nước ta. 62 Bản tin y học, Số 3.1991, tr 4-5 “Thư viện y học Trung ương” PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 79 - Thư viện khoa học chuyên ngành quân đội Hệ thống thư viện quân đội nhân dân Việt nam - là cơ quan văn hoá, giáo dục thông tin của quân đội, là công cụ giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng trong quân đội, là cơ sở nghiên cứu khoa học, là bộ phận nâng cao trình độ văn hoá, kĩ thuật công nghệ mới về quân sự cho cán bộ và chiến sỹ, đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hệ thống thư viện quân đội góp phần tích cực, thiết thực xây dựng quân đội trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thời kì mở cửa, hợp tác, hữu nghị, phát triển và đấu tranh chống các thế lực thù địch thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Mặt khác các loại hình thư viện quân đội tham gia vào đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hoá, góp phần bảo vệ cái hay, cái đúng, cương quyết chống lại các tư tưởng lệch lạc, loại bỏ các văn hoá phẩm xấu, độc hại, không cho chúng xâm nhập vào môi trường quân đội, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, khẳng định thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, thực hiện chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Hệ thống thư viện quân đội gồm có hai mạng lưới - mạng lưới thư viện khoa học và mạng lưới thư viện phổ thông (thư viện đơn vị). Theo thống kê toàn quân có 53 thư viện: 10 thư viện có vốn tư liệu từ 10 vạn đến 40 vạn bản 13 thư viện có vốn tư liệu từ 2 vạn đến 10 vạn bản 14 thư viện có vốn tư liệu từ 1 vạn đến 2 vạn bản 16 thư viện có vốn tư liệu từ 4 nghìn đến 1 vạn bản Có 330 phòng đọc cấp sư đoàn, trung đoàn, 620 tủ sách phòng Hồ Chí Minh63 Thư viện quân đội là thư viện trung tân ngành , thư viện quân đội có chức năng tàng trữ sách báo, tạp chí trong nước và nước ngoài có kho sách hơn 30 vạn bản, 1500 loại báo và tạp chí, có 10.000 bạn đọc. Thư viện quân đội đã phục 63 Báo cáo củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thư viện, sách báo trong quân đội. Hội nghị VHVN toàn quân 12/1995. 12 trang in máy vi tính NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 80 vụ hơn 200.000 lượt bạn đọc với gần 400.000 lượt tài liệu, trong đó tài liệu quân sự chiếm gần 40%64. Thư viện quân đội là Trung tâm Thông tin-Thư viện-Thư mục, đã biên soạn đủ các loại hình thư mục như phê bình sách, thư mục giới thiệu, thư mục chuyên đề... Thư viện quân đội là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho hệ thống thư viện toàn quân. Từ năm 1987 đến nay đã mở 25 lớp bồi dường nghiệp vụ cho 728 cán bộ thư viện, tập huấn cho 537 người. Ngoài ra thư viện còn cử cán bộ trực tiếp đến thư viện đơn vị cơ sở để hướng dẫn về kĩ thuật nghiệp vụ. Năm 1992, thư viện quân đội đã được trang bị máy vi tính, máy sao chụp nhân bản, đã xây dựng CSDL gần 2000 phiếu nhập tin vào máy tính điện tử chuyên đề tài liệu về chiến thắng Điện Biên Phủ. Để từng bước tin học hoá công tác thông tin thư viện của thư viện quân đội, các phòng chức năng và các phòng đọc đang có kế hoạch hoàn thiện bộ máy tra cứu truyền thống tiến tới phục vụ tra cứu tìm tin thông qua hệ thống máy tính, đồng thời cài đặt chương trình tổ chức quản lí bạn đọc. - Hệ thống thư viện chuyên ngành giáo dục và đào tạo Thư viện các trường đại học và cao đẳng góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên gia cho các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học tự nhiên, kĩ thuật, công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, y tế, quốc phòng... Thư viện các trường đại học và cao đẳng thực hiện chức năng quan trọng là Trung tâm Thông tin-văn hoá-khoa học của các trường đại học và cao đẳng, phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng học tập, giảng dạy cuả thầy giáo và học sinh. Thư viện trường đại học và cao đẳng sưu tầm, bổ sung sách báo phục vụ sinh viên theo ngành học, lớp học, năm học thích hợp với chương trình kế hoạch đào tạo của nhà trường. Phục vụ sách cho sinh viên đại học và cao đẳng không chỉ hạn chế trong việc cung cấp sách giáo khoa và giáo trình. 64 Thượng tá, PTS Mạc Văn Trọng. Thư viện quân đội trong những năm đổi mới. Tập san thư viện, số 4/1994, tr.5-8 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 81 Nhiệm vụ của thư viện trường đại học và cao đẳng là gây cho sinh viên hứng thú đối với sách báo nghiên cứu khoa học, nhằm mở rộng tầm hiểu biết khoa học, và những kiến thức chuyên môn, trau dồi thói quen độc lập nghiên cứu. Để đạt được mục đích đó, thư viện cần tổ chức các nhóm điểm sách trong sinh viên, bồi dưỡng cho sinh viên kiến thức về thư viện - thư mục - thông tin. Thư viện các trường đại học sư phạm và cao đẳng sư phạm là loại hình thư viện khoa học nằm trong loại hình thư viện các trường đại học nói chung. Có nhiệm vụ và chức năng tàng trữ sách báo, luân chuyển sách báo đến tay thầy giáo và học sinh, là trung tâm thông tin-thư viện-thư mục, trung tâm nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực thư viện, thư mục thông tin các trường đại học và cao đẳng. Phục vụ các công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ, cấp trường, phục vụ nâng cao chất lượng giảng dạy sản xuất của các tổ bộ môn, các phòng thí nghiệm. Hệ thống thư viện chuyên ngành giáo dục phổ thông, thực chất là thư viện trường học, là trung tâm văn hoá, thông tin tư liệu của nhà trường, nó trực tiếp góp phần thực hiện chương trình đào tạo của nhà trường, nếu không có thư viện thì không thể giảng dạy, học tập tốt được. Thư viện trường học là cơ sở vật chất quan trọng của nhà trường phổ thông. Số lượng thư viện trường học phổ thông rất lớn: 13.000 thư viện phổ thông các cấp, phục vụ cho 11,5 triệu học sinh; 200 thư viện trường bổ túc văn hoá tập trung (Không kể tại chức) phục vụ 6,7 vạn học sinh, 160 thư viện trường sư phạm và bồi dưỡng các cấp, phục vụ cho 26 vạn học sinh. Ngoài ra thư viện còn phục vụ cho 40 vạn giáo viên, cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lí, chỉ đạo giáo dục phổ thông. Đặc điểm kho sách của thư viện trường phổ thông bao gồm: Sách giáo khoa, giáo trình cho học sinh, sách hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên, sách tham khảo đọc thêm và các tư liệu phục vụ giảng dạy và học tập, phù hợp với mục tiêu đào tạo của các loại trường. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 82 Tính chất hoạt động của thư viện trường học là phục vụ theo chương trình năm học, theo môn học và theo học kì... Xuất phát từ đối tượng phục vụ, đặc điểm kho sách, tính chất hoạt động của thư viện, chúng ta có thể chia hệ thống thư viện trường học phổ thông làm 3 mạng lưới khác nhau: 1/ Mạng lưới thư viện trung tâm của các cấp quản lí giáo dục phổ thông từ Bộ, tỉnh, thành phố, huyện... 2/ Mạng lưới thư viện các trường sư phạm và bồi dưỡng chuyên ngành giáo dục phổ thông như thư viện trung học sư phạm (10+3,10+2,12+2), thư viện sư phạm mẫu giáo, trường bồi dưỡng, trường cán bộ quản lí. 3/ Mạng lưới thư viện trường phổ thông gồm có: thư viện trường phổ thông cơ sở (cấp1,2), thư viện trường phổ thông trung học(cấp3). Hệ thống thư viện chuyên ngành giáo dục phổ thông gồm có 3 mạng lưới theo mô hình của khoa học sư phạm, nhưng thực chất nó vẫn nằm trong hai loại hình: thư viện khoa học và thư viện phổ thông. II.1.4.3 Các loại hình thư viện trong tương lai Trong thời đại ngày nay công nghệ thông tin đã trở thành vũ khí lợi hại, thứ vũ khí vô hình “lưỡi kiếm thần” của sự phát triển nhanh kinh tế xã hội. Vì tài nguyên thông tin đã trở thành sức mạnh vật chất của mỗi quốc gia. Thông tin là trí tuệ, là kinh tế, là chính trị, là sức mạnh. Thống trị tài nguyên thông tin là thống trị kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là” quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lí kinh tế, quản lí xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì phải “tin học hoá quốc gia” và hiện đại hoá công nghiệp PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 83 công nghệ thông tin là vô cùng cấp thiết và là chiến lược hàng đầu. Tác động của việc áp dụng công nghệ thông tin mới đến thư viện tương lai phụ thuộc vào hai yếu tố: Công nghệ tin học và phạm vi ứng dụng nó. Trên cơ sở hai yếu tố này sẽ xuất hiện 4 loại hình thư viện: thư viện điện tử, thư viện đa phương tiện, thư viện số và thư viện ảo. Như thế nào là thư viện điện tử?. Chúng ta có thể khái niệm thuật ngữ thư viện điện tử để chỉ các hệ thống thư viện mà các quá trình hoạt động, các chức năng cơ bản của thư viện có bản chất điện tử: sử dụng máy tính và các phương tiện tự động hoá hỗ trợ khác như bảng tra trực tiếp, tìm văn bản đầy đủ, lưu các biểu ghi tự động hoá, ra quyết định bằng máy tính... Đặc điểm của thư viện điện tử là sử dụng phổ biến các phương tiện điện tử trong việc nhập tin, lưu trữ, bảo quản, tìm tin và cung cấp thông tin. Hiện nay nhiều thư viện của các nước phát triển đang bắt đầu áp dụng công nghệ thông tin xây dựng thư viện điện tử. Trong khu vực điển hình là thư viện Tampines ở Singapor - đây là thư viện áp dụng công nghệ tin học cao. Thư viện này cung cấp các phương tiện cho phép xem vô tuyến vệ tinh, truyền hình cáp, tiếp cận đến các CSDL quốc tế và dịch vụ thư viện tại nhà, các trạm tương tác CD-I (Compac Disk - Interactive), các trạm để xem phim, mục lục tiếp cận công cộng trực tuyến (Online Public access catalogue) và hệ thống cho mượn tự động. Ở nước ta, có thể xây dựng thư viện điện tử trong tương lai gần hay xa hoàn NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 84 toàn phụ thuộc chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ thông tin (tin học hoá quốc gia). Chúng ta cũng phải khẳng định rằng, trong thư viện điện tử, sách truyền thống sẽ tiếp tục tồn tại cùng với các ấn phẩm điện tử. Vì thư viện điện tử vẫn cần sự giúp đỡ của cán bộ thư viện (yếu tố con người) sử dụng một phần mềm tương tác có khả năng mô phỏng, kĩ năng của con người trong các lĩnh vực cụ thể. Thư viện đa phương tiện. Thư viện đa phương tiện là thư viện sử dụng nhiều công cụ, phương tiện lưu trữ thông tin và tri thức khác nhau: Giấy, vi phim, đĩa CD-ROM... Về cơ bản thư viện đa phương tiện giống như thư viện truyền thống, sẽ chứa sách cùng với thông tin được lưu trữ trên Video, băng video, đĩa compac, viphim, đĩa video, phần mềm máy tính... Quá trình tổ chức và quản lí thư viện đa phương tiện cũng sẽ giống như thư viện truyền thống: Chủ yếu là thủ công, việc tìm tin cũng thủ công: sử dụng các bảng tra bằng phiếu, vi phim, vi phiếu... trong thư viện đa phương tiện sử dụng máy tính song chúng không thể tự động hoá hoàn toàn công tác thư viện. Do đó, tất cả các bộ phận trong thư viện đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các dịch vụ thư viện. Thư viện số65. Thư viện số khác với hai dạng thư viện kể trên, trong thư viện số thông tin chỉ ở dạng điện tử số dù chúng được lưu giữ trên các phương tiện khác nhau: Bộ nhớ điện tử, đĩa quang, đĩa từ... Như vậy ở thư viện số không có bất kì một cuốn sách truyền thống nào. Để tiếp cận thông tin số, cần có các trạm máy đọc đa phương tiện (special purpose multimedia reader). Các thư viện như vậy có thể đặt ở một phòng đọc công cộng hay một phòng dùng cho cá nhân học tập hoặc nghiên cứu. Thông tin được tiếp cận từ xa qua modem hoặc nhờ các mạng lưới truyền thông tự động. Điểm mạnh nhất 65 Philip Barker.- The Electronic Library, Vol.12, No4, 1994 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 85 của thư viện số là có thể tiếp cận thông tin dễ dàng và nhanh chóng với giá rẻ. Trong khi một thư viện trường học truyền thống chỉ có 1-2 bản sao của một cuốn sách, thư viện số có khả năng cung cấp một số lượng không hạn chế các bản sao với một nút bấm. Tất nhiên thư viện số cho phép tiếp cận đến các thông tin chỉ đọc và thông tin “nhanh nhất” nghĩa là người dùng tin có thể xem hoặc sửa đổi thông tin được lưu giữ và được cung cấp trong phạm vi họ có quyền sử dụng. Thư viện số sẽ tiếp tục phục vụ người dùng tin nhờ cán bộ thư viện. Hơn nữa do nhiều người dùng tin sẽ tiếp cận từ xa nên phải có các cơ chế lựa chọn để tiếp cận đến các dịch vụ. Điều này có thể giải quyết nhờ các phương tiện thư điện tử (Email) sẽ giúp việc liên lạc giữa bạn đọc với cán bộ thư viện. Cán bộ thư viện dễ dàng sử dụng thư điện tử để chuyển các thông báo, các bản tin điện tử tới bạn đọc của mình. Thư viện ảo66. Hệ thống thư viện ảo dựa trên công nghệ hiện thực ảo, mà dạng đơn giản nhất của nó là gặp mặt từ xa. Công nghệ hiện thực ảo đã được áp dụng có kết quả để xây dựng các cảnh quan, thành phố, các phòng học, phòng thí nghiệm, phòng hoà nhạc ảo. Hiện nay công nghệ này đang được áp dụng xây dựng thư viện ảo. Một số thư viện ảo đã được sử dụng dưới hình thức các sản phẩm CD-ROM bao gói, hầu hết các hệ thống tiên tiến nhất chỉ tồn tại trong những hệ thống máy tính tinh vi có các thiết bị truyền thông hiện đại hỗ trợ. Để tiếp cận đến các thư viện ảo, cần có các giao diện hai chiều dựa vào các trạm máy tính truyền thống, hoặc các giao diện ba chiều có các màng hình chữ to và các thiết bị ngoại vi trợ giúp. Ở các thư viện ảo, bạn đọc có thể mượn sách từ xa, không đến thư viện bằng cách dùng các bảng tra hoặc mục lục để chọn sách và đọc (tất nhiên sách chỉ có trong máy tính và trong bộ nhớ của máy đọc). Nói tóm lại, thư viện là nguồn lực thông tin quan trọng, đã tàng trữ tri thức của nhân loại từ cổ đại cho đến hiện đại, 66 Philip Barker.- The Electronic Library, Vol.12, No4, 1994 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 86 trên các vật mang tin khác nhau, đã góp phần tích cực, có hiệu quả trong việc phát triển khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thư viện sẽ tiếp tục đóng vai trò xã hội, kinh tế, văn hoá, khoa học, kĩ thuật và sư phạm cực kì to lớn trong hiện tại và tương lai.Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, thư viện cũng được thay đổi về quan niệm lưu giữ và cung cấp thông tin mới. Tất nhiên trong tương lai các hệ thống thư viện truyền thống và hệ thống thư viện điện tử, thư viện ảo... với tính linh hoạt của công nghệ cho phép hai hình thức thư viện trên song song tồn tại, một số người vẫn tiếp tục sử dụng các thư viện truyền thống, trong khi một số khác có thể dùng thư viện điện tử, thư viện ảo..., như vậy, thư viện thoả mãn được mọi yêu cầu dùng tin của tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội, từ những người có trình độ học vấn thấp cho đến những người có trình độ học vấn cao, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp của tất cả bạn đọc khác nhau. II.1.5 Phục vụ bạn đọc Công tác bạn đọc hoặc tổ chức phục vụ sách báo cho bạn đọc và nhân dân lao động - đây là hoạt động của thư viện thúc đẩy phát triển và thoả mãn nhu cầu, hứng thú đọc sách của bạn đọc. Công tác bạn đọc bao gồm việc tuyên truyền, hướng dẫn, lãnh đạo đọc sách, tổ chức những hình thức phục vụ độc giả trong và ngoài thư viện. II.1.5.1 Phục vụ độc giả trong thư viện Những hình thức phục vụ bạn đọc trong thư viện là phòng mượn và phòng đọc. - Tổ chức công tác bạn đọc trong phòng mượn. Phòng mượn là trung tâm hoạt động của tất cả các loại hình thư viện. Nhiệm vụ của cán bộ thư viện là nhận đăng kí bạn đọc. Hoàn thành mẫu đăng kí bạn đọc và cấp thẻ, sẽ giúp cho cán bộ thư viện nắm vững lai lịch, hoạt động, tuổi tác, trình độ, PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 87 nghề nghiệp, thành phần dân tộc, nơi làm việc và nơi ở của bạn đọc, để hướng dẫn đọc sách đúng đối tượng, đúng yêu cầu; đồng thời giới thiệu cho bạn đọc về nội quy sử dụng thư viện, kho sách và bộ máy tra cứu tìm tin của thư viện để bạn đọc khai tác sử dụng có hiệu quả tài liệu,sách báo phục vụ cho nghiên cứu, học tập và hoạt động công tác... - Nhiệm vụ của cán bộ phòng mượn: a) nhận đăng kí bạn đọc mới vào thư viện, nhận sách bạn đọc trả, ghi phiếu cho độc giả mượn sách; b) mạn đàm với độc giả về những cuốn sách đã đọc và giới thiệu sách mới; c) Cung cấp sách theo phiếu yêu cầu (Có trong kho sách hay không). Phòng mượn của thư viện có thể phân chia phục vụ bạn đọc theo các hình thức sau đây: - Phục vụ độc giả theo chức năng - Phục vụ độc giả theo nhóm - Phục vụ độc giả theo từng ngành khoa học. Có hai loại phòng mượn: Phòng mượn tổng hợp trong thư viện phổ thông công cộng và phòng mượn khoa học chuyên ngành trong các viện nghiên cứu, các trường đại học. Những hình thức tổ chức phòng mượn trong các trường đại học và thư NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 88 viện khoa học cần tổ chức cho bạn đọc mượn sách về nhà theo thành phần bạn đọc: Phòng mượn cho giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, giảng viên chính, thạc sĩ, nghiên cứu sinh, phòng mượn cho cán bộ quản lí và lãnh đạo, cho các phòng chức năng, phòng mượn cho cán bộ nghiên cứu, các trung tâm, các phòng thí nghiệm... phòng mượn phục vụ sinh viên theo chuyên ngành đào tạo từng khoa, từng bộ môn, theo lớp, theo từng năm học: Năm thứ I,II,III.IV... Trong phần này giới thiệu các loại hình phòng mượn, chứng minh thư viện đã tìm mọi biện pháp phục vụ bạn đọc hợp lí và có hiệu quả hơn. - Phòng đọc: Tổ chức công tác độc giả trong phòng đọc - dựa trên những nguyên tắc phục vụ có phân biệt từng nhóm độc giả khác nhau, công tác với từng độc giả là cơ sở công tác của phòng đọc. Phục vụ độc giả trong phòng đọc có đặc điểm riêng của nó. Độc giả không chỉ có quyền sử dụng kho sách của phòng đọc mà còn được sử dụng tất cả kho sách của thư viện kể cả những xuất bản phẩm đặc biệt quý hiếm không được mượn về nhà. Ngoài ra độc giả được sử dụng xuất bản phẩm có định kì, các loại sách dẫn, sách tra cứu: Bách khoa toàn thư, từ điển, niên giám... Phòng đọc áp dụng kho mở tự chọn, do đó độc giả phải làm quen với hệ thống sắp xếp kho sách. Điều đó có thể đạt được bằng phương pháp xây dựng sơ đồ sắp xếp kho, hướng dẫn cho độc giả sử dụng kho sách mở tự chọn tài liệu trong kho. Trong thư viện các trường đại học và cao đẳng, tổ chức phòng đọc cho thầy giao và học sinh. Phòng đọc khoa học cho giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ... phòng đọc tổng hợp phục vụ cho tất cả cán bộ, công nhân viên, học sinh trong toàn trường, phòng đọc chuyên ngành về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật và công nghệ, sáng chế phát minh... Ngoài ra còn có những phòng đọc chuyên môn: Giáo học pháp, phương pháp giảng dạy đại học; phòng đọc tạp chí chuyên ngành và liên ngành, tạp chí tóm tắt, phòng đọc microfilm, phòng đọc vi phiếu, PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 89 phòng đọc âm nhạc, phòng đọc tiếng nước ngoài, phòng đọc sách quý hiếm, phòng đọc bản thảo, bản chép tay, phòng đọc sách Hán nôm, phòng đọc phương pháp nghiên cứu thư viện học, thông tin học và thư mục học... Thống kê công tác phòng đọc và phòng mượn chính là thống kê hoạt động cơ bản nhất của toàn thư viện, nhằm đánh giá chất lượng, hiệu quả phục vụ của thư viện nói chung và công tác độc giả nói riêng về tình hình luân chuyển sách, tình hình độc giả đến thư viện nghiên cứu (kể cả số lượng lẫn chất lượng). Thống kê công tác ở phòng mượn và phòng đọc cần đảm bảo 3 yêu cầu chính xác, kịp thời và đầy đủ. II.1.5.2 Phục vụ độc giả ngoài thư viện. Tổ chức phục vụ độc giả ngoài thư viện là phục vụ nguyên tắc phổ cập tri thức, nhằm nâng cao dân trí. Để thực hiện được nguyên tắc đó, nhiệm vụ của thư viện là phải tổ chức luân chuyển sách báo đến tận tay mỗi người dân bất kì làm việc và sống ở đâu, từ thành thị cho đến nông thôn, từ đồng bằng cho đến vùng sâu, vùng xa, hải đảo, ở đó không có thư viện cố định. Một số độc giả vì điều kiện lao động không thể đến thư viện một cách đều đặn như công nhân các trạm khai thác chế biến gỗ, các tập thể đánh cá, cán bộ vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không dân dụng... cần đảm bảo luân chuyển sách báo đến tay họ là nhiệm vụ quan trọng của thư viện. Trong những năm chống Mỹ cứu nước thư viện Việt nam đã thực hiện “sách đi tìm người”, “sách ra trận địa pháo”, “sách trên mặt biển”,“sách trên đường Trường Sơn”, “sách trên các chốt biên phòng”, “sách ở thành cổ Quảng Trị”... Tổ chức phục vụ sách báo đến mỗi điểm dân cư, mỗi gia đình, nơi làm việc và sản xuất chỉ bằng con đường sử dụng một cách rộng rãi các hình thức khác nhau phục vụ độc giả ngoài thư viện. Những hình thức này đã được sử dụng rất sinh NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 90 động trong thực tế các loại hình thư viện khác nhau bao gồm: Chi nhánh thư viện, thư viện lưu động, trạm giao sách, mượn sách giữa các thư viện, mượn sách bằng thư, phòng mượn quốc tế... II.2 THÔNG TIN HỌC II.2.1 Thông tin học là bộ môn khoa học Thông tin học là bộ môn khoa học nghiên cứu những quy luật của quá trình thông tin trong giao lưu xã hội. II.2.1.1 Khái niệm thông tin. Thông tin là toàn bộ tri thức của nhân loại được truyền lại trong không gian và thời gian; tri thức là động lực phát triển kinh tế xã hội trong các thời đại. Qua thông tin con người nhận thức thế giới xung quanh và giao tiếp, trao đổi với nhau trong đời sống xã hội. Do vạn vật luôn luôn biến đổi, tri thức nhân loại ngày càng phong phú, đa dạng, nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông tin của con người ngày càng lớn, cộng với phương tiện kĩ thuật công nghệ hiện đại, mà con người tạo ra để có thể liên lạc, trao đổi với nhau trên bình diện toàn cầu mà dẫn đến bùng nổ thông tin như ngày nay. Trong bách khoa toàn thư Liên xô (cũ) xuất bản lần thứ 3. Tập 10 - đã nêu khái niệm thông tin - là tin tức truyền đi bởi con người bằng lời nói, chữ viết hoặc phương tiện khác, đã chứng minh giữa thế kỉ XX. Đây là khái niệm khoa học chung, sự trao đổi thông tin giữa con người với nhau, con người và tự động, tự động với tự động, trao đổi tín hiệu trong thế giới động vật và thực vật, truyền các kí hiệu từ tế bào đến tế bào, từ cơ thể đến cơ thể. Vào những năm 50 của thế kỉ XX ở Pháp, thuật ngữ Information được hiểu là khoa học chính xác, nghiên cứu PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 91 những vấn đề xử lí thông tin bằng máy tính điện tử..., nghiên cứu chế tạo máy móc, dụng cụ đọc, dụng cụ điều khiển vô tuyến điện, sử dụng máy tính điện tử nhận tin và lấy tin ra bằng tự động... Ở Mỹ, vào những năm 60 của thế kỉ này, documentation thay thế bằng thuật ngữ information nghiên cứu quy luật dòng tin, phương tiện xử lí tin bằng máy tính điện tử, sao chụp nhân bản tài liệu, sao chụp vi phim, vi phiếu, kĩ thuật ghi âm cơ khí, tự động hoá quá trình tóm tắt, định kí hiệu, phân loại, mã hoá... thiết kế cấu trúc các hệ thống tìm tin. Nhà bác học Mỹ P.Jertori xác định information nghiên cứu dự báo trong hình thức dữ kiện... đặc biệt, kĩ thuật tính, lập trình cho máy tính điện tử. II.2.1.2 Thuật ngữ. “Thông tin học” đã được hình thành từ những năm 40 của thế kỉ XX và đã trở thành bộ môn khoa học độc lập. Trong thời kì này đa số các công trình nghiên cứu , tập trung giải quyết các vấn đề, hệ thống tìm tin, phương pháp phục vụ thông tin, nghiên cứu thuật toán và lập trình gắn liền với xử lí thông tin, thư viện, thư mục, lưu trữ... từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin - thư viện tự động hoá. II.2.1.3 Đối tượng nghiên cứu của thông tin học. Nghiên cứu quy luật tìm tin, các dòng tin, hệ thống tìm tin nhân tạo gắn liền với giao lưu xã hội. Nghiên cứu quy luật tìm tin trong hệ thống thông tin bao gồm: Công nghệ các quá trình tìm tin, dự báo khoa học và quản lí quá trình tìm tin. Những phương pháp và quan điểm hệ thống... để bổ trợ và tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển, thông tin học có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khoa học khác: Phân tích hệ thống, nghiên cứu các công đoạn truyền thông hiện đại, lí thuyết xác suất, lí thuyết thông tin, lí thuyết truyền NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 92 CSDL, khoa học luận, tư liệu học, thư viện học, thư mục học, lưu trữ học... II.2.1.4 Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của thông tin học. Thông tin học có lịch sử phát triển hơn một thế kỉ gắn liền với sự phát triển hệ thống viễn thông, hệ thống truyền đại chúng, có thể chia ra ba giai đoạn như sau: Giai đoạn đầu: thông tin phát triển cùng với sự phát minh ra điện tín năm 1837 với các kĩ thuật điện thoại, truyền thanh, truyền hình... Giai đoạn hai: thông tin gắn liền với sự phát triển mạch vi điện tử và máy tính vào những năm 50 của thế kỉ XX. Cùng với hệ thống cáp và vệ tinh, các tiến bộ tin học đã biến truyền thanh, truyền hình thành phương tiện truyền thông đại chúng. Giai đoạn ba: Từ năm 1985 đến nay, nhân loại đang ở trong “kỉ nguyên thông tin toàn cầu” qua các mạng truyền thông quốc tế (Internet) . Thông tin không chỉ là sức mạnh kinh tế mà còn là nguồn tài nguyên đặc biệt cần thiết trong mọi lĩnh vực văn hoá, chính trị và xã hội. Thông tin có vị trí quan trọng như một đòn bẩy của nền kinh tế quốc dân. Trong thời đại ngày nay, không ai không biết siêu xa lộ thông tin thế giới Internet, mang lại lợi ích vô cùng to lớn cho cả loài người. Mọi người khắp trên thế giới có thể trao đổi thông tin với nhau một các thuận tiện, các kho tri thức được hoà nhập vào siêu xa lộ thông tin cho mọi người cùng sử dụng, trở thành tài sản chung của các dân tộc trên hành tinh của chúng ta. Có lẽ vì lí do đó, mà có người đã khẳng định: Siêu xa lộ thông tin là biểu hiện rực rỡ nhất của nền văn minh tin học trong thập niên cuối cùng của thế kỉ XX. (Xin lưu ý là loài người đã trải qua 3 thời đại văn minh): Thời đại văn minh nông nghiệp - dùng sức cơ bắp để tăng năng suất lao động; thời đại văn minh công nghiệp - dùng cơ khí, lao động có kĩ thuật, có kỉ luật, có năng suất cao; nền văn minh tin học, dùng tự động hoá trên cơ sở xử lí thông tin). PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 93 II.2.2 Hoạt động thông tin thư viện thư mục là các ngành khoa học thực nghiệm của thông tin học. Nghiên cứu mối quan hệ tương hợp của thông tin học, thư viện học, thư mục học với quan điểm phân tích hệ thống giao lưu xã hội , có nghĩa là phân tích các kênh truyền tin trong xã hội. Sự giao lưu xã hội chia làm 3 dạng thông tin sau đây: Từ thông tin trực tiếp, dẫn đến thông tin tư liệu và thông tin dữ kiện, phát triển những hướng cơ bản của quan điểm này có thể trình bày sự giao lưu bao gồm: - Thông tin trực tiếp (thông tin không hình thức, các kênh phổ biến tin ngoài tư liệu). - Thông tin tư liệu (Các kênh hình thức phổ biến tư liệu bậc 1) - Thông tin tư liệu bậc 2 hoặc thông tin thư mục (các kênh hình thức phổ biến tin về tư liệu bậc 2) - Thông tin dữ kiện (các kênh hình thức phổ biến quan điểm thực tế rút ra từ tư liệu công bố và không công bố). - Thông tin dữ kiện (các kênh phổ biến quan điểm, các nhân tố nhận được bằng con đường xử lí logic các tư liệu công bố và không công bố). Như vậy, hoạt động thông tin khoa học, hoạt động thư viện và thư mục có sự giống và khác nhau. Ở mỗi mức độ nào đó các dạng hoạt động này có sự giao tiếp với nhau và bổ sung cho nhau. Thông tin học sử dụng những quy luật và các phương pháp do thư viện học và thư mục học nghiên cứu vạch ra. Ví dụ những quy luật phân tán, phát triển nhanh chóng lạc hậu các ấn phẩm khoa học ..., áp dụng kết quả nghiên cứu phân loại thư viện - thư mục để xây dựng ngôn ngữ tìm tin, những phương pháp và hình thức phục vụ thông tin. Thư viện học và thư mục học áp dụng những kết quả nghiên cứu của thông tin học về các quan điểm mới, phương NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 94 pháp mới, công nghệ mới, lí thuyết thông tin gắn liền với kĩ thuật tính, xử lí tin trên máy tính điện tử, để phục vụ bạn đọc nhanh chóng kịp thời, có hiệu quả tài liệu sách báo trong công tác nghiên cứu, sản xuất và đời sống. II.2.3 Thông tin học và thực tiễn xã hội. II.2.3.1 Vai trò của thông tin khoa học. Thời đại ngày nay là thời đại vật chất, năng lượng và thông tin - là những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển toàn xã hội. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra với quy mô rộng lớn trên phạm vi toàn thế giới, khoa học đã trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất của xã hội. Việc áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến tác động mạnh mẽ đến sản xuất và đời sống. Sự tác động này càng lớn, thì đòi hỏi phải áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất càng mạnh, nhằm thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Chính vì vậy Trung tâm Thông tin-Thư viện khoa học và công nghệ đóng vai trò cực kì quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Như mọi người đều biết, trong lĩnh vực sản xuất vật chất, nếu tư bản được lưu thông nhanh bao nhiêu, thì lợi nhuận càng lớn bấy nhiêu. Trong khoa học cũng tương tự như vậy, ở đây thông tin khoa học đóng vai trò tư bản, các sự kiện, các tư tưởng mới, những sáng chế, phát minh mới trong khoa học và công nghệ quay vòng càng nhanh, thì lợi ích đến với xã hội càng lớn, nhịp độ phát triển khoa học và công nghệ càng cao, những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến càng được sử dụng rộng rãi trong sản xuất. II.2.3.2 Thông tin khoa học kỹ thuật là nguồn lực của mỗi quốc gia. Thông tin khoa học kỹ thuật thực sự trở thành nguồn lực quan trọng tạo nên những ưu thế kinh tế, chính trị. Nếu như PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 95 tiềm lực khoa học kỹ thuật là điều kiện quan trọng nhất của tài sản xã hội, thì thông tin khoa học được coi là một yếu tố cực kì quan trọng của tiềm lực khoa học kỹ thuật. Ngày nay người ta càng thấy rằng, khối lượng chất lượng của thông tin khoa học kỹ thuật thu thập được chính là loại sản phẩm đặc biệt của mỗi quốc gia, là những chỉ tiêu sức mạnh kinh tế và chính trị của mỗi nước. Thông tin khoa học kỹ thuật được coi là tài nguyên đặc biệt của quốc gia. Nguồn tài nguyên này khi được sử dụng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế thực sự to lớn, đồng thời tài nguyên thông tin khoa học kỹ thuật không cạn đi, mà ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú và vô tận, vì được bổ sung thường xuyên liên tục lượng thông tin mới. Đề cập đến phương hướng phát triển của tiềm lực khoa học kỹ thuật ở nước ta, nghị quyết 37-NQ của Bộ Chính trị về chính sách khoa học kỹ thuật đã nêu: : “Công tác thông tin phải góp phần tích cực rút ngắn quá trình từ nghiên cứu đến sản xuất, nâng cao chất lượng quản lí và lãnh đạo” và trong quá trình xây dựng tiềm lực khoa học kỹ thuật, thông tin phải được coi là “một yếu tố cực kì quan trọng của tiềm lực khoa học kỹ thuật”67. Nghị quyết 26 - NQ của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ 68 trong sự nghiệp đổi mới đã nêu rõ: khoa học và công nghệ là công cụ đắc lực để đổi mới quản lí, đổi mới công nghệ, đưa lực lượng sản xuất lên trình độ phát triển mới, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, nhằm công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. II.2.3.3 Vai trò thông tin trong khoa học, kỹ thuật và sản xuất. Sự phát triển, ứng dụng những kết quả nghiên cứu khoa học phục vụ đời sống, phát triển kinh tế xã hội, phụ thuộc trực tiếp vào khả năng tiếp cận nghiên cứu thông tin khoa học kỹ thuật mới nhất. Trong điều kiện của cuộc các mạng khoa học và công nghệ hiện nay, khoa học kỹ thuật và sản xuất là những bộ 67 Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật số 37/NQTƯ ngày 20-4-1981 68 Nghị quyết số 26/NQTƯ của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong thời kì đổi mới ngày 30-3-1991. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 96 phận quan hệ khăng khít với nhau tạo thành chu trình “Khoa học - kỹ thuật - sản xuất” trong đó mỗi bộ phận vừa là tiền đề, vừa là điều kiện thúc đẩy các bộ phận kia phát triển. Thực chất của mối quan hệ này là trao đổi thông tin nhằm mục đích: - Đảm bảo liên tục của quá trình quay vòng tri thức của chu trình “Khoa học-Kỹ thuật- sản xuất” trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Đẩy mạnh quá trình vật chất hoá tri thức khoa học, đảm bảo thông tin khoa học kỹ thuật cho các công trình nghiên cứu, triển khai mới và rút ngắn thời gian đưa các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Nâng cao hiệu quả quản lí quá trình áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ nói chung và trình độ khoa học kỹ thuật của các công trình nghiên cứu, triển khai nói riêng. Phản ánh sự vận động của thông tin từ khoa học đến sản xuất và ngược lại. A.D.Urxul đã đưa ra mô hình liên hệ thông tin và quản lí trong chu trình “Khoa học - kỹ thuật - sản xuất” (hình 1) Hình 1. Chu trình “Khoa học - kỹ thuật - sản xuất” Nói tóm lại, thông tin khoa học thực sự đóng vai trò quan trọng đối với khoa học, kỹ thuật và sản xuất như những bộ phận cấu thành của chu trình “Khoa học - kỹ thuật - sản QL KH SX KT PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 97 xuất” góp phần tích cực rút ngắn quá trình từ nghiên cứu đến sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực này. II.2.3.4 Vai trò thông tin phục vụ cán bộ lãnh đạo và quản lí. Quản lí là một dạng tương tác đặc biệt của con người đối với môi trường xung quanh. Quá trình quản lí có thể xác định như một hệ thống các hành động định hướng theo mục tiêu, trong đó những hành động cơ bản là xác lập mục tiêu, lập kế hoạch các quá trình hoạt động để đạt mục tiêu và kiểm tra việc thực hiện chúng69. Quản lí quá trình chuẩn bị để thông qua quyết định về một tình huống, một vấn đề nào đó trên cơ sở thông tin thu nhận được. Thông qua quyết định chính là một trong những nội dung cơ bản nhất của quá trình quản lí. Hiệu quả của quá trình quản lí hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của các quyết định có luận cứ khoa học và kịp thời, thể hiện được sự am hiểu, nắm vững vấn đề được quyết định70. Ở đây chất lượng của quyết định phụ thuộc vào sự đầy đủ và chất lượng của thông tin số liệu ban đầu. Như vậy thông tin là yếu tố quan trọng nhất mà thiếu nó thì không thể có bất kì quá trình quản lí nào trong hệ thống tổ chức xã hội. Công tác quản lí đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có những phẩm chất, năng lực, phải biết thu thập, xử lí, phân tích tổng hợp tin, vạch ra phương hướng chủ trương và biện pháp phát triển quá trình sản xuất, phát triển khoa học công nghệ và các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Trong cải cách nền hành chính quốc gia, trong nền kinh tế thị trường tổ chức cơ chế quản lí mới, thông tin phục vụ cho lãnh đạo và quản lí phải được chọn lọc, khái quát, ngắn gọn nhanh chóng và kịp thời cho việc ra quyết định chính xác đáp ứng yêu cầu thực tiễn của xã hội. Có thể khái quát mô hình ra quyết định quản lí như sau: 69 Semakin I. Thông tin khoa học và quản lí. M.: 1977 70 Khainhic C.Bliphenhic M.- Những vấn đề quyết định trong các hệ thống tổ chức quản lí. M.: IPKIR, 1978. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 98 Hình 2. Sơ đồ quá trình thông qua quá trình quyết định II.2.3.5 Thông tin giữ vai trò quan trọng trong giáo dục và đào tạo Hoạt động giáo dục và đào tạo, giảng dạy, học tập, ngoài phương pháp sư phạm trong quá trình dạy tốt và học tốt, phục vụ tốt cho chất lượng đào tạo cần khai thác có hiệu quả kho tư liệu khoa học của thư viện và các cơ quan thông tin. Tất nhiên với tiến bộ công nghệ, phương tiện thông tin ngày càng có vai trò to lớn trong quá trình chuyển giao tri thức. Các phương tiện chuyển giao tri thức gồm: sách, báo, tạp chí, radio, vô tuyến, vi phim, vi phiếu, băng hình, băng âm thanh, đĩa lase, đĩa compact, phần mềm máy tính, các mạng máy tính , các hệ thống vệ tinh. (Xem hình 3. Phương tiện thông tin chuyển giao tri thức). Nhờ mở rộng phương tiện thông tin chuyển giao tri thức cho cán bộ giảng dạy (thầy giáo), học sinh tạo nên những tri thức mới. Tri thức này đã truyền cho các thế hệ sau nhờ các hệ thống giáo dục và đào tạo, trong đó thầy giáo “tiếp thụ” tri thức và dạy cho sinh viên. Thông qua việc bổ sung tri thức này, sinh viên trở thành thầy giáo và nhà nghiên cứu, một xã hội được đào tạo ra một Tình huống vấn đề cần giải quyết Thu thập xử lí Phân tích thông tin Chọn chỉ tiêu đánh giá giải pháp chọn lọc Chuẩn bị phương án quyết định Lựa chọn phương án cuối cùng Thông qua quyết định Xác lập mục tiêu của quyết định PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 99 Thông tin chuyển giao tri thức Sinh viên Cung cấp thông tin Nhà nghiên cứu Sinh viên Lực lượng lao động mới Trở thành Tiếp thụ Cung cấp thông tin Tiếp thụ Trở thành Trở thành Dạy lực lượng lao động mới có năng lực, có khả năng vươn tới giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra. Thông tin - Thư viện là một hệ thống chuyển giao tri thức đáp ứng một số yêu cầu chính sau đây: - Có khả năng cung cấp một lượng tài liệu lớn cho nghiên cứu giảng dạy và đào tạo. - Cho phép thu thập và phổ biến thông tin tốt nhất cho giáo dục và đào tạo - Phục vụ cho các chuyên gia giáo dục trong quá trình đào tạo - Đáp ứng nhu cầu tự đào tạo “tự học suốt đời” Hình 3. Thông tin chuyển giao tri thức NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 100 II.2.4 Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ Hoạt động thông tin khoa học giữ vai trò quan trọng trong khoa học và góp phần nâng cao hiệu quả của khoa học. Nhiều nước kinh tế phát triển đã đầu tư 3% tổng thu nhập quốc dân cho khoa học. Hàng năm các nước trên thế giới đã chi phí từ 5 đến 8 tỷ đô la cho hoạt động thông tin khoa học. Vì vậy cần xác định đúng nội dung hoạt động của thông tin khoa học và vị trí của nó trong khoa học có ý nghĩa lớn về mặt lí luận và thực tiễn. Phát triển hoạt động thông tin khoa học cần phải nắm vững đặc điểm của thời đại và và đặc điểm của nước ta để hoà nhập vào khu vực và thế giới. Xu thế chung của thời đại ngày nay là: Hợp tác, hoà hợp, hữu nghị và phát triển, thời đại vật chất hoá xã hội - khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển; thời đại của trí tuệ công nghệ thông tin toàn cầu. Đặc điểm của Việt Nam là đổi mới nền kinh tế của đất nước từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - là tiền đề đổi mới cơ bản hoạt đông thông tin khoa học và công nghệ của nước ta. Chúng ta là thành viên chính thức của ASEAN là điều kiện thuận lợi cho việc hoà nhập, hợp tác, giao lưu thông tin khoa học và công nghệ của nước ta với các nước trong khu vực. Quan hệ bình thường hoá Việt - Mỹ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác song phương, đa phương, trao đổi thông tin tư liệu khoa học và công nghệ đa dạng phong phú nhằm thu nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến ứng dụng vào điều kiện nước ta. Mặt khác đối với hoạt động thông tin khoa học và công nghệ cần phải biết chọn lọc những tư liệu có giá trị về khoa học, nghệ thuật, nội dung tư tưởng chống lại văn hoá đồi truỵ, văn hoá nghệ thuật độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta làm giảm sút ý chí, phẩm chất đạo đức của nhân dân ta, đặc biệt là thanh thiếu niên của chúng ta.
| |
| | | Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: Re: NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) 5/4/2011, 8:23 pm | |
| Nghị quyết 26-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới ngày 30-3-1991 đã nêu rõ: “Cần xây dựng hệ thống thông tin hiện đại về khoa học và công nghệ kịp thời cung cấp thông tin mới cho cơ quan lãnh đạo và quản lí, các cơ quan nghiên cứu, các cơ sở sản xuất. Tham gia hệ thống thông tin khoa học thế giới. Dành một quỹ ngoại tệ thích đáng để mua các tư liệu thông tin cần thiết từ nước ngoài, nhất là từ những nước có trình độ phát triển cao”71. II.2.4.1 Định nghĩa hoạt động thông tin khoa học và công nghệ Hoạt động thông tin khoa học và nghiên cứu là một dạng lao động khoa học được hình thành có tổ chức do cán bộ thông tin thực hiện nhằm mục đích nâng cao hiệu quả nghiên cứu và triển khai bao gồm việc thu thập, xử lí, phân tích tổng hợp, bảo quản và tìm tin... Có hai luận cứ khoa học để khẳng định hoạt động thông tin khoa học và công nghệ là dạng lao động khoa học: 1/ Mục đích cơ bản của hoạt động thông tin khoa học và công nghệ trùng với dấu hiệu thứ 2 trong định nghĩa về lao động khoa học - sử dụng kịp thời có hiệu quả vào thực tiễn những hiểu biết đã thu nhận được. 2/ Một công trình nghiên cứu hoặc nghiên cứu triển khai bất kì bắt đầu bằng việc xác định đề tài, chuẩn bị thông tin theo đề tài là bộ phận hữu cơ của nghiên cứu khoa học và nghiên cứu triển khai. Định nghiã về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ đã khẳng định rằng loại lao động khoa học này do cán bộ thông tin thực hiện. Tóm lại người cán bộ thông tin chính là cán bộ khoa học, cán bộ chuyên môn uyên bác, mà lao động của họ cơ bản mang tính chất sáng tạo. Mục đích của hoạt động thông tin khoa học và công nghệ là nâng cao hiệu quả nghiên cứu và triển khai. Chính khái niệm này chúng ta phân biệt rõ hai loại hoạt động: Hoạt động 71 Nghị quyết số 26/NQTƯ30/3/1991 của Bộ Chính trị về công tác thông tin khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới. H.: 1991, tr.8 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 102 thông tin và hoạt động nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu được các cơ quan thông tin, thư viện cung cấp tư liệu đó là hoạt động thông tin. Những công trình nghiên cứu khoa học do các nhà khoa học sử dụng tư liệu thu nhận những kiến thức mới, phát hiện những quy luật nội tại của đối tượng nghiên cứu, thì thuộc hoạt động nghiên cứu. Sự phân chia lao động khoa học thành thực nghiệm và lí thuyết dựa trên phương pháp đã được xác định trong các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Quá trình phân chia như vậy được phát triển theo phương diện chức năng đã tạo ra 3 dạng lao động khoa học độc lập: nghiên cứu thuần tuý, hoạt động thông tin khoa học và công tác tổ chức khoa học (xem hình 1) Hình 1 Các dạng lao động khoa học Lao động thực nghiệm Lý thuyết Thực nghiệm Cơ sở phân chia Mục đích Cơ sở lí thuyết và phương pháp luận Nghiên cứu thuần tuý Hoạt động thông tin và khoa học công nghệ Nâng cao hiệu quả khoa học như một nghành của nền KTQD Công tác tổ chức khoa học Thông tin học Duy vật biện chứng Nhận thức các quy luật tự nhiên xã hội và tư duy Nâng cao hiệu quả nghiên cứu Khoa học luận LAO ĐỘNG KHOA HỌC PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 103 Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ là một bộ phận hữu cơ của lao động khoa học. Nhưng hoạt động thông tin khoa học và công nghệ khác với nghiên cứu khoa học, vì hoạt động thông tin là giai đoạn đầu tiên - giai đoạn chuẩn bị tư liệu của bất kì một công trình nghiên cứu nào, và tạo điều kiện tiến hành nghiên cứu đạt chất lượng và hiệu quả cao. II.2.4.2 Các quá trình hoạt động thông tin khoa học và công nghệ Quá trình hoạt động thông tin khoa học và công nghệ bao gồm các mặt hoạt động sau đây: Thu thập tin, hệ thống hoá, xử lí phân tích tin, lưu trữ tin, tìm tin, sao in tài liệu, phổ biến khoa học và công nghệ. Đó là những giai đoạn, hoặc những chức năng nhiệm vụ cơ bản của hoạt động thông tin khoa học và công nghệ (xem hình 2) Hình 2. Các quá trình thông tin khoa học và công nghệ. I. Thu thập tin III. Lưu trữ tin IV. Tìm tin VI. Phổ biến tin II. Xử lý phân tích Tổng hợp tin HĐTTKHCN VI. Sao tin Hoạt động của con người như nguồn tin khoa học và công nghệ NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 104 Nhiệm vụ cơ bản của quá trình đầu tiên là thu thập nguồn tin khoa học và công nghệ đầy đủ nhất. Nguồn tin là loại tài liệu gốc bất kì mà từ đó người dùng tin có thể rút ra được những số liệu, những kết luận cần thiết. Nguồn tin phân chia thành 2 dạng: Nguồn tin tư liệu và nguồn tin dữ kiện. Nguồn tin tư liệu bao gồm: Tư liệu bậc 1 và tư liệu bậc 2. * Tư liệu bậc 1 bao gồm tư liệu công bố và tư liệu không công bố. Tư liệu công bố bao gồm: Xuất bản phẩm không định kì và xuất bản phẩm định kì. - Xuất bản phẩm không định kì như sách, sách chuyên khảo, sách giáo khoa, sách phổ thông, sách xã hội chính trị, sách khoa học và kĩ thuật... - Xuất bản phẩm định kì như báo, tạp chí, các loại tài liệu đặc biệt (Các bản mô tả sáng chế phát minh, bằng sáng chế phát minh bản quyền tác giả, tiêu chuẩn nhà nước, tài liệu kỹ thuật ngành và liên ngành, Catalo công nghiệp và bản giá vật liệu và thiết bị...) Tài liệu không công bố có ý nghĩa to lớn với tư cách là nguồn thông tin khoa học và công nghệ. Tài liệu không công bố bao gồm các báo cáo tổng kết khoa học kỹ thuật , phiếu thông tin, preprin, tài liệu dịch, luận án, các bản thảo, bản chép tay... * Tư liệu bậc 2: Tư liệu bậc 2 thực hiện 2 chức năng cơ bản: 1/ Có khả năng thông tin nhanh chóng cho người dùng tin. 2/ Trình bày hết sức cô đọng nội dung tư liệu bậc 1, rút gọn lượng thông tin tài liệu gốc, không có lượng thông tin mới. Tư liệu bậc 2 còn gọi là ấn phẩm thông tin. Tư liệu bậc 2 gồm: Tài liệu thư mục, sách dẫn thư mục, thư mục của thư mục, các loại biên niên, bảng tra chủ đề, bảng tra hoán vị, bảng tra trích dẫn, các ấn phẩm tóm tắt: thông tin tin nhanh, tạp chí tóm tắt, tuyển tập tóm tắt,... các ấn phẩm tổng quan, sách tra cứu như bách khoa toàn thư, từ điển, hộp phiếu chuyên đề... PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 105 Nguồn tin dữ kiện. Nguồn tin dữ kiện song song tồn tại với nguồn tin tư liệu. Nguồn tin dữ kiện gồm: những kết quả quan sát trực tiếp, hình ảnh, chụp ảnh các đối tượng khác nhau của thế giới vật chất, chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, các thông số máy móc, thiết bị, dụng cụ, công trình... các bản vẽ, các đồ án, tranh vẽ, sơ đồ, bản đồ, moden vật lí, cơ học, toán học, công thức hoá học... Quá trình thứ II - Xử lí phân tích tổng hợp tin Xử lí phân tích tổng hợp tin là quá trình thứ hai của hoạt động thông tin khoa học và công nghệ. Các dạng chủ yếu của phân tích tổng hợp tin bao gồm: Mô tả thư mục các tư liệu (Mô tả theo tiêu chuẩn quốc tế, gọi tắt là ISBD (International Standard Bibliography Description), phân loại tư liệu (đánh kí hiệu, sử dụng bảng phân loại thư viện thư mục BBK, bảng phân loại thập tiến UDC, bảng phân loại 17 lớp của thư viện Quốc gia biên soạn, chú thích, dẫn giải, tóm tắt, biên soạn tổng quan ... Những dạng xử lí phân tích tổng hợp tin ngày càng được hoàn thiện nhờ sự phát triển của ngành xuất bản sách, sự nghiệp phát hành và thư viện học, thư mục học, ngôn ngữ học ứng dụng và tổ chức lao động khoa học. Tuy nhiên, sự ra đời của thông tin học đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lí phân tích, tổng hợp tin trên máy tính điện tử, từng bước cơ giới hoá, tin học hoá các khâu xử lí tin. Quá trình thứ III - Lưu trữ tin (bảo quản tin) Nhiệm vụ của quá trình này là tổ chức bảo quản tư liệu lâu dài, tổ chức các kho thông tin tư liệu, phương pháp sắp xếp kho, phương pháp bảo quản kho tư liệu, phương pháp khai thác sử dụng kho tư liệu khoa học và công nghệ có hiệu quả, đồng thời nghiên cứu các vật mang tin có khả năng bảo quản lâu dài, có thể sắp xếp tư liệu vào hệ thống hoàn chỉnh cho phép tìm nhanh chóng các tài liệu cần thiết có trong kho lưu trữ tin. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 106 Quá trình thứ VI - Tìm tin Quá trình thứ 4 của hoạt động thông tin khoa học và công nghệ là một hoạt động công đoạn logic, đảm bảo phát hiện các tin cần thiết. Ở đây, nhiệm vụ quan trọng nhất là xác định sự phù hợp giữa nội dung tài liệu với nhu cầu tin. Có 3 dạng tìm tin cơ bản: 1/ Tìm tin hồi cố, có nghĩa là tìm các tư liệu thành văn (toàn bộ hoặc một phần) chứa những lượng thông tin về một vấn đề nhất định. 2/ Thông báo kịp thời cho từng chuyên gia về các ấn phẩm có giá trị đối với họ. Tìm tin có chọn lọc (theo địa chỉ của người dùng tin). 3/ Tìm tin trên máy tính điện tử. Ngôn ngữ tìm tin là ngôn ngữ nhân tạo chuyên dạng, dùng để diễn đạt nội dung, ý nghĩa cơ bản của tài liệu. Ngôn ngữ tìm tin gồm có: Ngôn ngữ thông tin; ngôn ngữ đánh chỉ số; ngôn ngữ tư liệu; ngôn ngữ dùng để ghi thông tin dưới dạng mà máy có thể cảm thụ được (người ta thường dùng hệ thống đếm nhị phân làm ngôn ngữ này); ngôn ngữ hình thức để mô tả các thuật toán dùng cho việc giải các bài toán, chú ý các thuật ngữ toán này phải được thực hiện trên máy tính. Hiện nay, trong lĩnh vực tìm tin tư liệu người ta thường sử dụng 3 loại ngôn ngữ tìm tin sau đây: - Các khung phân loại thư viện thư mục, khung phân loại UDC - Các khung phân loại chủ đề chữ cái - Các loại ngôn ngữ từ chuẩn. Tài liệu được coi là thích hợp nếu tổng các hệ số “trọng lượng” của những từ chuẩn trong lệnh tìm trùng hợp với từ chuẩn trong mẫu tìm không nhỏ hơn đại lượng R đã quy định. Ví dụ: trong hệ thống tìm tin sử dụng một hệ số trọng lượng gồm 18 điểm, trong đó có 9 điểm dương và 9 điểm âm. Lệnh tìm có danh sách các từ chuẩn: A,B,C,D,E và F; A=6; B=9; C=1; D=-3; E=9; F=6, R³15. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 107 Khi đó có thể xảy ra hai trường hợp sau đây: a/ Mẫu tìm tài liệu có những từ chuẩn A,B,D như vậy R=12, điều đó có nghĩa là tài liệu này không đáp ứng được yêu cầu tin đã nêu. b/ Mẫu tìm tài liệu gồm có các từ chuẩn B,E,F như vậy R=24. Tất nhiên trong trường hợp này tài liệu đáp ứng yêu cầu tin và được hệ thống đưa ra72 Quá trình thư V. Sao in Quá trình thứ 5: sao chụp nhân bản tài liệu đã được thực hiện do kết quả của việc tìm tin, hoặc do xử lí, phân tích, tổng hợp tin nhằm chuyển giao cho người sử dụng. Trong những trường hợp riêng biệt, quá trình này có thể không cần sao chụp lại tài liệu đã tìm được, mà truyền qua màn hình của máy tính. Quá trình thư VI. Phổ biến tin Là quá trình kết thúc của hoạt động thông tin khoa học và công nghệ , có quan hệ chuyển những tin theo yêu cầu đến người dùng tin. Phổ biến tin không chỉ chuyển tài liệu đến người dùng tin, mà còn giới thiệu tài liệu khoa học và công nghệ mới nhất, giới thiệu những ấn phẩm nói về những thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước phát triển trên thế giới, thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, hệ thống truyền dữ liệu... Qua các quá trình hoạt động thông tin khoa học và công nghệ, chúng ta nhận thấy rằng: tổ chức là cơ sở của quá trình thứ nhất; ngữ nghĩa là cơ sở của quá trình thứ 2 và thứ 4; tổ chức kỹ thuật là cơ sở của quá trình thứ 3 và thứ 5; tổ chức giới thiệu là quá trình thứ 6. Nói tóm lại, sơ đồ quá trình hoạt động thông tin khoa học và công nghệ đã được khảo cứu trên đây là quy trình mẫu để cho bất kì hệ thống thông tin nào. Nhưng tuỳ theo tình hình thực tế, điều kiện mục đích và nhiệm vụ cụ thể của cơ quan 72 R.J. Tritachler . A Computer - Integrated system for Centrasemination storage and retrieval - “Aslid Procedings” 1992, V.14, No. 12, P.498. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 108 mà áp dụng cho thích hợp, không nhất thiết phải theo đúng 6 quá trình, chúng ta có thể xây dựng thành 4 quá trình: 1) Thu thập tin (nguồn tin), 2) Xử lí phân tích tổng hợp tin, 3) Lưu trữ (bảo quản) và tìm tin, 4) Sao in và phổ biến tin. II.2.4.3 Đào tạo, bồi dưỡng người dùng tin Người dùng tin giữ vai trò quan trọng trong các hệ thống thông tin khoa học và công nghệ. Họ như là yếu tố tương tác hai chiều đối với các đơn vị thông tin, người dùng tin vừa là khách hàng của các dịch vụ thông tin, đồng thời họ là người sản sinh ra thông tin mới, tham gia vào các dòng thông tin. Người dùng tin là một yếu tố thiết yếu, năng động của hệ thống thông tin. Vì vậy cần đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn cho người dùng tin biết sử dụng các sản phẩm thông tin và các dịch vụ thông tin. Việc đào tạo bồi dưỡng người dùng tin nhằm giúp họ hiểu được cơ chế tổ chức của công tác thông tin tư liệu, biết sử dụng, khai thác các nguồn thông tin hiện có. Các cơ quan thông tin phải tạo mối quan hệ mật thiết với người dùng tin vì đó là đối tượng, là thước đo hiệu quả hoạt động của một đơn vị thông tin. Đào tạo, bồi dưỡng người dùng tin bao gồm các vấn đề sau đây: - Cung cấp những kiến thức về thông tin học nói chung - Hướng dẫn một cách ngắn gọn các nguồn tin và cách khai thác, sử dụng chúng. - Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thông tin thư viện thư mục bằng các lớp ngắn hạn cho người dùng tin, để họ hiểu được dịch vụ thông tin và các phương tiện chuyển giao thông tin tư liệu hiện đại. Việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho người dùng tin cần đưa vào chương trình đào tạo chính quy của các trường đại học thông tin thư viện, các trường đại học sư phạm để phục vụ cho đối tượng nghiên cứu, giảng dạy và học tập PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 109 trong hệ thống giáo dục và đào tạo, trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trong khoa học và công nghệ... II.2.5 Các mạng thông tin khoa học và công nghệ truyền dữ liệu. II.2.5.1 Sự bùng nổ thông tin - Hiện tượng tăng nhanh số lượng các ấn phẩm khoa học và công nghệ được gọi là sự bùng nổ thông tin. Để chứng minh điều này, xin nêu mức độ tăng thông tin khoa học kỹ thuật và công nghệ xuất bản hiện nay trên thế giới gần 2000 trang in/phút. Sáng ngày khi ngủ dậy, nhà nghiên cứu không thể tưởng tượng được rằng hôm nay trên thế giới có thêm 2 tờ tạp chí mới. Chỉ riêng ngành hoá học hàng năm xuất bản tới hơn 500 nghìn ấn phẩm định kì. Số lượng in các tập san địa chất - địa lí của Mỹ cứ 7 năm tăng gấp đôi, tập san Toán lí là 10 năm,... ở Nga (Liên xô cũ ) từ năm 1950-1980 số lượng xuất bản các sách khoa học kỹ thuật tăng hơn 4 lần, các tạp chí khoa học kỹ thuật tăng gấp 8 lần. Như vậy phải.... quá trình tăng nhanh ấn phẩm sẽ không ảnh hưởng tới hiệu suất khoa học của nhà nghiên cứu. Nếu như năm 1960 khối lượng thông tin được coi là đơn vị thì đến năm 1975 nó sẽ tăng lên 3,5 lần, năm 1985 tăng lên gấp 8 lần và đến năm 2000 sẽ tăng lên gấp 23 lần. Giáo sư D. Price Chủ nhiệm khoa Lịch sử trường đại học Ien (Mỹ) đã phân tích hiện tượng tăng số lượng các ấn phẩm tạp chí tóm tắt khoa học kỹ thuật trong 200 năm gần đây và đã xây dựng một đồ thị trong toạ độ bán logarit và đã phát hiện ra quy luật bùng nổ thông tin phát triển theo hàm số mũ. Các số liệu của giáo sư D. Price đã thu thập được trên cơ sở phân tích thống kê các tài liệu quá khứ nghĩa là tài liệu đáng tin cậy, còn sự kiện vẫn như thế cho đến ngày nay, dự báo đến năm 2000 trên thế giới người ta xuất bản tới 1 triệu loại tạp chí khoa học (Xem đồ thị của D.Price). NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 110 Đồ thị của D.Price về tăng số lượng ấn phẩm A-B= đường biểu diễn năm xuất bản A E= đường biểu diễn tăng số lượng ấn phẩm Căn cứ vào cơ sở khoa học phân tích thống kê Giáo sư D.Price đã kết luận cứ 10 năm số lượng ấn phẩm tăng gấp đôi. Nhà khoa học luận G.M.Đôbrôp đã viết: “Hệ số chung của việc sử dụng một cách có kết quả kho tàng thông tin do nhân loại tích luỹ được, có khuynh hướng giảm đi rất rõ rệt” Do đó, không phải tất cả thông tin đã tích luỹ được đều có giá trị và cần thiết như nhau, các nguồn dự trữ lớn về tri thức, vật chất, kĩ thuật được sử dụng một cách lãng phí. Con người đã biết chinh phục thiên nhiên, lại không tìm ra biện pháp cần thiết khắc phục bùng nổ thông tin hay sao? Những biện pháp và phương hướng khắc phục dòng thông tin tư liệu gia tăng không ngừng do sự bùng nổ thông tin gây ra theo 3 hướng sau đây: - Mở rộng số lượng và quy mô các kho thông tin tư liệu - Đa dạng hoá và chuyên môn hoá (CSDL và ngân hàng dữ liệu) - Sử dụng kĩ thuật và công nghệ thông tin mới (đổi mới kĩ thuật: Tin học, viễn thông và vi xử lí) 1000 000 100 000 100 E 1 000 10 000 A 1800 1850 1900 1950 2000 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 111 Hiệu quả của việc sử dụng máy tính điện tử trong thông tin khoa học và công nghệ thật to lớn: Tập trung thông tin trong bộ nhớ lớn, những CSDL và NHDL, tăng nhanh tốc độ xử lí thông tin đã mở ra hướng mới đầy triển vọng khắc phục cơ bản sự bùng nổ thông tin. II.2.5.2 Xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hoá a) Những khái niệm về cơ sở dữ liệu (CSDL) - Dữ liệu (data, donnees, gannưie) là thông tin được biểu diễn dưới dạng hình thức hoá cho phép bảo quản, xử lí và truyền được trong hệ thống thông tin, trong mạng tính toán và mạng truyền dữ liệu. Dữ liệu trong trường hợp này không phải là mọi thông tin dưới bất kì dạng nào, mà chỉ là những thông tin có thể xử lí được (theo nghĩa bảo quản, bổ sung, tạo lập các mảng, tìm kiếm, chọn lọc, sắp xếp...) trên máy tính điện tử và truyền được trong các mạng truyền thông (qua kênh điện thoại, điện báo, vệ tinh...) Vì vậy thông tin đó phải được biểu diễn dưới dạng hình thức hoá theo yêu cầu cụ thể của các phương tiện tin học và truyền tin đi xa. Dữ liệu ở đây không chỉ thông tin về một vấn đề nào đó, mà là những tin đã được ghi trên các vật mang tin đọc bằng máy (băng từ, đĩa từ...) - Cơ sở dữ liệu (data base, base de donnees, Baza gannưie). Cơ sở dữ liệu là tập hợp tên gọi cấu trúc các dữ liệu có liên quan với nhau được dùng trong một hoặc một số lĩnh vực nào đó. Cơ sở dữ liệu chia thành 3 loại chính 1/ Cơ sở dữ liệu thư mục (Bibliography data base, bibliographique base de donnees, Bibliographycheskaja Baza gannưk) bao gồm các CSDL tư liệu cụ thể: CSDL chỉ có mô tả thư mục; CSDL gồm mô tả thư mục và các từ khoá hoặc các từ chuẩn; CSDL gồm mô tả thư mục và từ khoá và văn bản bài tóm tắt; CSDL gồm mô tả thư mục và toàn văn tài liệu. 2/ Cơ sở dữ liệu dữ kiện (Factography data base, Factographique basse de donnees). Cơ sở dữ liệu dữ kiện là những cơ sở dữ liệu chứa các dữ kiện cụ thể (Các tin tức về các tham số, các tính chất, các số liệu thống kê cụ thể, dân NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 112 số, đồ thị, đồ hình, bản đồ...) Ví dụ các CSDL “Mezinarodre porovnatelne ukazatele” của Trung tâm Thông tin-khoa học kỹ thuật và kinh tế của Tiệp khắc (Cũ). Đây là cơ sở dữ kiện bao gồm các thông số về các lĩnh vực: Sản phẩm xã hội, đầu tư cơ bản, dân số, sức sản xuất, ngoại thương, tài chính, kim ngạch, các ngành công nghiệp, giá cả, mức sống... 3/ Cơ sở dữ liệu tư liệu dữ kiện (Documentation Factography data base, Documentation Factographique basse de donnees). Đây là dạng CSDL kết hợp của hai dạng CSDL nêu trên. Chúng không chỉ cung cấp những dữ kiện cụ thể, mà còn cho biết các tài liệu cung cấp dữ kiện đó. Tóm lại việc xây dựng CSDL dữ kiện hoặc CSDL tư liệu dữ kiện đang được đặc biệt quan tâm nhất là trong các lĩnh vực kinh tế kĩ thuật cụ thể. Các máy vi tính là công cụ hữu hiệu nhất cho phép xây dựng và khai thác các CSDL này. - Ngân hàng dữ liệu (NHDL) (Date bank, Banque de donnees) là một dạng hệ thống thông tin dùng để: Tích luỹ khối lượng lớn các dữ liệu tương đối đồng nhất, có liên quan với nhau; Đổi mới (cập nhật) các dữ liệu đó; Sử dụng tập thể cho nhiều mục đích khác nhau. Thành phần của NHDL bao gồm: 1/ Một hoặc một tập hợp các CSDL khác nhau trong đó có thể gồm các CSDL tự xây dựng lấy, hoặc các CSDL có được do sự trao đổi, bổ sung từ ngoài vào (nhập nội từ nước ngoài hay do các cơ quan thông tin khác cung cấp). 2/ Tổ hợp các phương tiện xây dựng , bảo trì và khai thác các CSDL. Tổ hợp này bao gồm: a) Máy tính điện tử và các thiết bị ngoại vi, các thiết bị sao chụp nhanh, các thiết bị truyền và nhận dữ liệu từ xa; b) Hệ quản lí các CSDL; c) Ngôn ngữ tìm tin, các thủ tục, phương pháp; d) Người quản trị NHDL và các nhân viên vận hành, khai thác NHDL. CSDL và NHDL có quan hệ mật thiết với nhau như bộ phận và toàn bộ. CSDL không những là bộ phận cấu thành của NHDL mà còn là sản phẩm đầu ra của NHDL, với tư cách là sản phẩm của NHDL, các CSDL được đưa vào mạng thông tin để sử dụng chung theo chế độ On-line hoặc trao đổi giữa các cơ quan thông tin với nhau cung cấp cho người dùng tin dưới dạng băng từ, đĩa từ, trên cơ sở sao toàn bộ, hoặc chọn lọc những dữ liệu cần thiết. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 113 b) Định nghĩa hệ thống thông tin thư viện tự động hoá là tổ hợp các phương pháp tổ chức và phương pháp toán học xử lí thông tin bằng máy và các phương tiện kĩ thuật tính toán, liên lạc, in và sao chụp nhanh cho phép tự động hoá các chức năng của cơ quan thông tin các cấp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả đảm bảo thông tin cho các cơ quan, xí nghiệp, cán bộ quản lí, các nhà khoa học, các chuyên gia và những người trực tiếp sản xuất những thông tin mới nhất về thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ và sản xuất. Hệ thống thông tin tự động hoá có thể được xem như một tổ hợp có tổ chức các nguồn tin khoa học và công nghệ, con người và các phương tiện kĩ thuật dùng để giải quyết các nhiệm vụ thu thập, xử lí bảo quản, tìm và cung cấp thông tin theo diện đề tài phù hợp với nhu cầu tin của các ngành của nền kinh tế quốc dân. c) Yêu cầu chung xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hoá. Khi thiết kế và phát triển xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hoá cần tính đến các xu hướng phát triển của hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia; sự phân công chức năng giữa các cơ quan thông tin các cấp; việc mở rộng trao đổi thông tin trên các vật mang tin đọc bằng máy và theo các kênh liên lạc; khả năng trang bị máy vi tính, việc sử dụng các trung tâm tính toán và các hệ thống tìm tin từ xa... d) Thành phần cấu trúc hệ thống thông tin tự động hoá. Cấu trúc hệ thống thông tin - thư viện tự động hoá gồm các phần đảm bảo và tập hợp các phân hệ chức năng theo các đặc trưng tổ chức: - Đảm bảo thông tin công nghệ cho hệ thống là dạng đảm bảo quan trọng và phức tạp. Khi thiết kế cần giải quyết các nhiệm vụ: Xác định thành phần dữ liệu; hình thức hoá việc thể hiện thông tin; nhập tin vào và đưa tin ra; chọn và lập luận chứng các vật mang tin đọc bằng máy, xác định cấu trúc nhà băng dữ liệu... Như vậy trong khuôn khổ đảm bảo thông tin - công nghệ cần xác định dạng và diện bao quát đề tài và NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 114 yêu cầu tin, xác định Format tiền máy; xác định cấu trúc và khối lượng các mảng tin, nhập tin vào các mảng và bảo trì chúng. - Đảm bảo ngôn ngữ cho hệ thống thông tin thư viện tự động hoá. Đảm bảo ngôn ngữ là một tổ hợp logich - ngữ nghĩa, bao gồm ngôn ngữ tìm tin và các chỉ tiêu cung cấp tin. Ngôn ngữ tìm tin là ngôn ngữ nhân tạo dùng phản ánh nội dung, ý nghĩa của tài liệu và yêu cầu trong mẫu tìm nhằm so sánh một cách hình thức khi tìm tin. Chỉ tiêu cung cấp tin là thuật toán xác định mức độ tương ứng hoặc phù hợp giữa mẫu tìm tài liệu và lệnh tìm của yêu cầu. Ngôn ngữ tìm tin bao gồm: ngôn ngữ phân loại (Khung đề mục quốc gia, phân loại UDC, phân loại BBK, phân loại sáng chế phát minh...), ngôn ngữ từ chuẩn (từ điển từ chuẩn, từ khoá...)... - Đảm bảo chương trình cho hệ thống thông tin tự động hoá. Để tiến hành xử lí thông tin trên máy tính điện tử. Đảm bảo chương trình gồm hệ điều hành và cụm chương trình ứng dụng. Cụm các chương trình ứng dụng trong hệ thống thông tin và thư viện giải quyết các nhiệm vụ: nhập tin vào máy tính và kiểm tra logich - hình thức thông tin, tổ chức và đổi mới các mảng tin, tìm tin, biên soạn và xuất bản ấn phẩm thông tin, xử lí thống kê thông tin... - Đảm bảo kĩ thuật cho hệ thống thông tin tự động hoá.- dựa trên tổ hợp các phương tiện kỹ thuật thực hiện các chức năng: + Thu thập, xử lí và bảo quản tài liệu; + Tìm tin và truyền tin đi xa + Sao và nhân tài liệu... - Đảm bảo pháp lí cho hệ thống thông tin thư viện tự động hoá. + Các tài liệu là cơ sở để xây dựng hệ thống + Tiết chế các vấn đề nảy sinh trong quá trình thiết kế và áp dụng hệ thống. + Tiết chế mối quan hệ giữa người cung cấp tin, người dùng tin và hệ thống. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 115 + Tiết chế mối quan hệ lẫn nhau giữa các phân hệ của hệ thống. - Đảm bảo cán bộ cho hệ thống thông tin thư viện tự động hoá.- Cần đào tạo, bồi dưỡng các chuyên gia quản trị CSDL, xử lí phân tích tin, bảo quản và khai thác hệ thống thông tin khoa học và công nghệ. e) Các phân hệ của hệ thống thông tin tự động hoá. - Phân hệ bổ sung kho tin bảo đảm hình thành các mảng tin đưa vào hệ thống (tư liệu, tư liệu-dữ kiện, dữ kiện) phù hợp với diện bao quát của đề tài và nhu cầu tin của các đối tượng phục vụ. - Phân hệ nhập tin, tiến hành xử lí tiền máy các tài liệu, đưa tin lên các vật mang tin đọc bằng máy và nhập tin vào máy tính điện tử. - Phân hệ bảo quản tin, đảm bảo tổ chức hợp lí việc tích luỹ, bảo quản và bảo trì các CSDL, xây dựng NHDL nhằm tiến hành có hiệu quả việc tìm tin tự động hoá. - Phân hệ phục vụ thông tin theo các chế độ phân phối tin có chọn lọc, tìm tin hồi cố, tìm tin theo chế độ On-line. - Phân hệ biên soạn và xuất bản ấn phẩm thông tin trên cơ sở tin có trong hệ thống. - Phân hệ nhân các mảng tin, đảm bảo tạo lập và chuyển giao cho người sử dụng trên băng từ, đĩa từ các mảng tin cần thiết bằng cách sao toàn bộ, hoặc chọn lọc theo yêu cầu người sử dụng. - Phân hệ sao chụp và cung cấp tài liệu gốc. - Phân hệ quản lí hệ thống thông tin thư viện tự động hoá, đảm bảo kế hoạch và quản lí vận hành hệ thống, phân tích và đánh giá việc thực hiện quy trình công nghệ, xử lí tin trong hệ thống, điều hoà sự tương tác với các hệ thống khác, kiểm kê và kiểm tra thực hiện các kế hoạch và các nguồn chi phí, thống kê các hoạt động của hệ thống. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 116 Trên đây là những phân hệ chức năng điển hình đặc trưng cho một hệ thống thông tin thư viện tự động hoá, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng cơ quan thông tin mà ứng dụng các phân hệ chức năng cho thích hợp với đơn vị mình. II.2.5.3 Vài nét về hệ thống thông tin thư viện tự động hoá của các nước tư bản. Vào những năm 60 của thế kỉ XX thông tin thư viện tự động hoá phát triển và phổ biến ở các nước Mỹ, Anh, Pháp... Thông tin bậc 2 sản xuất trên các vật mang tin dùng cho máy đọc, tư liệu thông tin được chuẩn bị trong hệ thống tự động hoá thống nhất của các trung tâm thông tin thư viện lớn. Vào cuối năm 1985, theo thống kê trên thế giới có trên 1200 cơ sở thư mục tóm tắt và cơ sở dữ kiện, có mối quan hệ với một ngành, một đề tài, một đối tượng thông tin. Thư viện Quốc hội Mỹ là hệ thống thông tin thư mục tự động hoá lớn nhất ở Mỹ, hoàn thiện chức năng biên mục tập chung tất cả sản phẩm in quốc gia - MARC (Machine Readable Catalog) đã được nghiên cứu thử nghiệm và sử dụng. Hoàn thiện hình thức giao lưu máy đọc mục lục nhằm mục đích trao đổi tin, ghi chép trên vật mang tin băng từ, sản xuất mục lục in chủ đề chữ cái, phiếu mục lục theo tiêu chuẩn và các dạng sách dẫn thư mục. Chuyển kết quả tìm tư liệu được thực hiện trên băng từ, microfilm, micro phiếu, những màn hình của video terminal. Tất cả NHDL gắn liền với việc truyền tin, thông qua máy tính điện tử. Thư viện y học dân tộc Mỹ - là Trung tâm Thông tin-Thư viện tự động hoá ngành, có chức năng phân tích và tìm tin y học mang tên MEDLINET (Medical library network). Cơ sở thông tin của hệ thống mô tả phân tích các bài trích tạp chí y học quan trọng của tất cả các nước trên thế giới bao gồm 20 nghìn tên loại tạp chí y học. Hệ thống có NHDL tin dữ kiện và đã xuất bản tạp chí tóm tắt, ấn phẩm tra cứu trên băng từ, đĩa từ... phục vụ cho người dùng tin. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 117 Hệ thống thông tin thư viện tự động hoá trường cao đẳng của bang Ôhaiô gọi tắt là OCLC (Ohaio College Library Centre). NHDL trung tâm của hệ thống có hơn 9 triệu mô tả thư mục về luận án và ấn phẩm tùng thư bằng 150 thứ tiếng của các nước trên thế giới. Hằng năm bổ sung cho hệ thống gần 1 triệu ghi chép mới, trong đó có một nửa là băng từ nhập của thư viện quốc hội Mỹ, số còn lại nhập từ các thành viên tham gia vào hệ thống. Ở Anh phục vụ thông tin do thư viện quốc gia Anh Britan tiến hành. Hệ thống thông tin tự động hoá gọi tắt là BLAISE (Britan Library Automate Information System) phục vụ theo chế độ đối thoại (người/ máy). Sự liên hệ của người sử dụng tin với cơ sở NHDL trung tâm qua các kênh điện thoại truyền thông của bưu điện. Ở Pháp, hệ thống thông tin tự động hoá PASCAL - đây là CSDL đa ngành, đa ngôn ngữ của Pháp do Viện thông tin khoa học và kỹ thuật quốc gia Pháp xây dựng (INIST). Hệ thống tự động hoá thông tin Pascal gồm có 4 lĩnh vực lớn của khoa học và công nghệ: khoa học về sự sống, kể cả tâm lí học; khoa học chính xác, khoa học kỹ thuật, khoa học ứng dụng; khoa học về trái đất; khoa học về vũ trụ. Đây là một trong những CSDL lớn nhất thế giới. Pascal truy nhập tin trên CD-ROM từ năm 1987 với mức độ tăng khối lượng dữ liệu hàng năm là gần nửa triệu phiếu nhập tin. Chương trình tìm tin của Pascal theo 3 ngôn ngữ: Anh, Pháp, Tây Ban nha, đồng thời tìm tin theo 3 yếu tố: Nhan đề, từ khoá và tóm tắt II.2.5.4 Vài nét về mạng tin học và truyền dữ liệu quốc tế. Internet - mạng thông tin quốc tế được hình thành từ những năm cuối của thập kỉ 60 ở Mỹ, cái mới là từ những năm đầu của thập kỉ 90, Internet đã trải rộng khắp toàn cầu nhờ hệ thống viễn thông quốc tế. Nó làm rung chuyển thế giới ở tính thực tiễn của nó. Đây là xa lộ thông tin mà các máy tính khắp thế giới có thể liên lạc được với nhau. Các nhà nghiên cứu ngồi ở nhà mà vẫn đọc được những tư liệu chuyên NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 118 50 30 Triệu máy Năm 1991 1992 1993 1994 1995 ngành của khắp các nước trên hành tinh. Internet là phương tiện giao lưu thông tin, là kho tài nguyên tri thức của nhân loại được lưu giữ trong nhiều CSDL to lớn nối mạng vào Internet cho mọi người cùng sử dụng. Những tiến bộ vượt bậc của công nghệ viễn thông (telecom) với sự trợ giúp đắc lực của phương tiện truyền tải thông tin (Cáp quang, vệ tinh...) và các phát triển mới trong mạng diện rộng WAN (Wide Area Network) và mạng động hay mạng không dây (Movi Network) làm cho Internet ngày càng phát triển và phổ cập với mọi quốc gia. Trong những năm gần đây số lượng máy tính nối mạng vào Internet rất lớn (Xem biểu đồ sau đây) Internet là mạng máy tính toàn cầu đóng vai trò xa lộ thông tin chuyển tải các thông tin số hoá (digital) giữa máy tính và máy tính. Dự báo năm tới, toàn thế giới sẽ có khoảng 100 triệu máy tính nối mạng với Internet. Đây là phương tiện giao lưu văn hoá, khoa học, công nghệ, giới thiệu thông tin hợp tác đầu tư cho việc quảng cáo, giới thiệu mặt hàng, là cơ PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 119 hội nhận gia công phần mềm và lĩnh hội các ý tưởng, quan điểm mới, những thành tựu, những phát minh mới. II.2.5.5 Vài nét về mạng tin học và truyền dữ liệu ở Việt nam. a) Sự phát triển mạng truyền dữ liệu của Việt nam. - Việc truyền dữ liệu diện rộng dưới dạng telex của Việt nam đã được tiến hành từ năm 1989 với tổng đài telex - alpha với tốc độ 50 baud. Mạng truyền dẫn đường trục Bắc - Nam được xây dựng: Tuyến Viba băng rộng 140MB/s, tuyến cáp quang 34MB/s với kĩ thuật truyền dẫn đồng bộ SDH (Synchronous Digital Hieranchy), mạng truyền dẫn liên tỉnh cũng được trang bị hiện đại toàn bộ bằng các tuyến Viba 2 đến 34 MB/s. Một số tuyến quan trọng đạt tốc độ 140MB/s. Hệ thống viễn thông quốc tế được chú ý phát triển. Hiện nay cả nước có 3 tổng đài cửa ngỏ (Gateway) và 7 trạm mặt đất thuộc hai hệ thống Intersputnik Intelsat có khả năng cung cấp 4000 kênh liên lạc quốc tế. Từ cuối năm 1993 toàn bộ các tỉnh, thành phố cả nước đã được trang bị tổng đài điện tử kỹ thuật số. Mạng truyền số liệu chuyển mạch gói được xây dựng tại 3 thành phố Hà nội, Tp Hồ Chí Minh, Đà nẵng. Mạng truyền số liệu quốc gia đang được hình thành. Tóm lại cơ sở hạ tầng truyền thông quốc gia có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của hệ thống mạng thông tin khoa học và công nghệ. b) Vai trò của mạng máy tính trong hoạt dộng thông tin khoa học và công nghệ. Mạng truyền thông máy tính là một mạng liên kết các đầu mối (điểm nút ) với các nguồn và các mạng máy tính. Nó tạo điều kiện dễ dàng cho việc truyền thông tin qua các thiết bị liên kết chuyển đổi. Người dùng tin có thể truy nhập vào mạng thông qua các trạm đầu cuối (đặt ở các điểm nút) và các thông điệp chuyển trên mạng qua các nút chuyển. Hai loại mạng chủ yếu được phân biệt trên cơ sở phạm vi địa lí nó bao quát: mạng cục bộ LAN (Local Area NetNHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 120 work) và mạng diện rộng khu vực WAN. Mạng LAN như Ethernet giúp việc truyền dữ liệu giữa các máy đặt trong khu vực cục bộ. Khoảng cách giữa các máy có thể từ vài mét tới vài kilomet. Mạng WAN có chức năng tương tự nhưng được thực hiện trên khoảng cách lớn hơn. Cự li có thể từ vài trăm kilomet tới vài nghìn hoặc vài chục nghìn kilomet. Thư điện tử (E-mail) sẽ giúp việc liên lạc giữa người dùng tin với cơ quan thông tin, giữa người dùng tin với nhau, cũng như giữa các cán bộ thông tin. Cán bộ thông tin dễ dàng sử dụng thư điện tử để chuyển các thông báo, các bản tin điện tử đến khách hàng của mình và tới các cơ quan thông tin khác trong mạng lưới thông tin. Hiện nay, nhiều cơ quan thông tin và thư viện được trang bị máy tính tương thích IBM.PC với cấu hình như sau: Bộ xử lí 386 hoặc 486, ổ cứng 120MB; bộ nhớ 4MB RAM; mônitơ VGA; máy in Epson LQ; có modem đi kèm máy tính, máy điện thoại... Các cơ quan thông tin và thư viện đều sử dụng phần mềm CDS/ISIS 3.1 do Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia hướng dẫn theo chương trình của UNESCO phổ biến miễn phí. Thao tác trên cơ sở hệ thống MS-DOS, áp dụng trong việc nhập hồ sơ của phiếu mục lục và xây dựng CSDL. C) Cấu trúc hệ thống mạng (hình thể mạng) Nhiều năm qua một số hình thể mạng được xây dựng gồm: 1/ Mạng sao (star), mỗi trạm được nối tới máy chủ của mạng trung tâm theo kiểu nối điểm độc lập. Mạng cục bộ LAN của cơ quan thông tin thư viện có thể áp dụng mạng sao (xem hình 1). 2/ Mạng vòng (ring), các trạm được nối trong một vòng tròn, các dữ liệu được chuyển giao theo vòng tròn tới máy chủ (xem hình 2). 3/ Mạng cột sống (backbone) hoặc (bus), mỗi trạm được nối tới một cáp chính riêng (cột sống) của nó (xem hình 3). Kiểu hình thể này, sự kiểm soát của máy chủ với các thông tin được mở rộng từ các bus được xử lí ngay. Do đó mạng diện rộng WAN cần phải thiết kế theo kiểu mạng cột sống. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 121 Việc kiểm soát truy nhập mạng có hai phương pháp: Tập trung và phân tán. Hầu hết mạng LAN sử dụng phương pháp truy nhập phân tán, mỗi trạm tham gia vào việc kiểm soát mạng lưới ngang nhau. Phương pháp truy nhập được áp dụng cho mạng WAN, các trạm đầu cuối sẽ được chia quyền trong sự liên lạc của hoạt động chuyển giao. Vì vậy sẽ có một trung tâm thông tin quản lí chung và các thành viên của mạng có thể tìm kiếm, chuyển đổi và sao chép hồ sơ thư mục để sử dụng tại kho tin của họ. Cấu trúc hệ thống phải được tổ chức theo kiểu hệ thống mở, có khả năng kết nối với các hệ thống khác trong và ngoài NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 122 ngành. Giao diện cần hoàn thiện không chỉ trong quan hệ người/máy mà còn trong quan hệ giưã ngành thông tin với thư viện và lưu trữ. d) Vài nét về các mạng tin học ở Việt Nam. Trong thời gian qua, do nhu cầu quản lí, nghiên cứu, đào tạo và kinh doanh nhiều mạng thông tin khoa học ở Việt nam đã được hình thành và đi vào hoạt động, chúng tôi xin giới thiệu một số mạng chủ yếu: - Mạng phục vụ khoa học. Nghiên cứu và giáo dục (VARNET-Vietnam Academic Research Network) do viện công nghệ thông tin thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia thiết lập với sự giúp đỡ của trường ĐHTH Quốc gia Australia. Mạng bắt đầu hoạt động từ năm 1993 và chủ yếu là cung cấp dịch vụ thư điện tử thông qua nút của mạng Internet tại ANU (Australia National University). Việc truyền thông tin gữa các máy tính với các máy chủ theo kiểu quay số điện thoại. - Mạng TNET: là mạng liên kết một số mạng diện rộng WAN có dùng chung một thủ tục giao diện và truyền thông là Tnet, mạng do trung tâm phần mềm thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia thiết lập và bắt đầu hoạt động vào giữa năm 1993, dịch vụ được cung cấp trong mạng là thư điện tử. Mạng có kết nối với Internet thông qua một máy chủ đặt tại AIT Bangkok (Thailand). - Mạng VINANET là mạng thông tin về thị trường giá cả do trung tâm thông tin thương mại - Bộ thương mại thiết lập vào đầu năm 1993. Thông tin trên mạng từ trung ương đến điểm nút được cập nhật 3 lần một ngày. Mạng có khả năng trả lời người sử dụng một số thông tin về luật thương mại và giá cả một số mặt hàng thiết yếu. - Mạng IDNET do trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ khoa học công nghệ và môi trường xây dựng, bắt đầu vận hành từ năm 1994. Đã có các CSDL về khoa học, công nghệ dưới dạng CD-ROM phục vụ cho việc truy cập thông tin từ các điểm nút. Mạng đã nối tới PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 123 các sở khoa học công nghệ và môi trường các địa phương và một số trường đại học như ĐHTHHN, đại học Sư phạm, đại học Thái Nguyên... - Mạng VCNET là một mạng do bưu điện Nha Trang thiết lập cho một số người dùng tin ở miền Trung. Đây là một mạng diện rộng với dịch vụ cơ bản là thư điện tử. - Ngân hàng dữ liệu ở thành phố HCM được thành lập đầu năm 1995. Đây là loại hình phục vụ thông tin mới, áp dụng những kỹ thuật tiên tiến của công nghệ thông tin : Cung cấp thông tin trên mạng máy tính, qua modem-FAX, ngân hàng dữ liệu đã tập hợp và tổ chức quản lí trên máy tính thông tin về 6000 doanh nghiệp trong nước và 10.000 doanh nghiệp nước ngoài (Mỹ, Nhật, Đức, Bỉ và các nước ASEAN). Ngân hàng dữ liệu đã nối mạng với Internet thông qua VARNET của Australia. Hệ thống tư liệu cập nhật gồm: Các bộ CD-ROM, các Catalog: hội chợ triển lãm, kỉ yếu, niên giám, các báo cáo hội nghị chuyên đề, nhãn hiệu hàng hoá, sách báo, tạp chí khoa học kỹ thuật, kinh tế, công nghệ, thương mại, pháp lí, kinh doanh... Ngân hàng dữ liệu đã tổ chức phục vụ cho các vấn đề chủ yếu sau đây: Thông tin kinh tế thị trường trong nước và quốc tế; thông tin pháp lí: Cung cấp các văn bản pháp lí Nhà nước, Bộ và UBND các tỉnh mới ban hành, có liên quan đến sản xuất, kinh doanh, những văn bản về luật lao động, tố tụng dân sự, đầu tư...; Thông tin giới thiệu đối tác: Ai muốn đầu tư vào Việt nam, mua bán với Việt nam, tìm đại lí tiêu thụ, tìm đối tác liên doanh, văn phòng và cơ quan đại diện... Tóm lại, trong cơ chế thị trường, trong thời kì đổi mới phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước một số mạng tin học ở Việt nam đã được thiết lập và có nhu cầu mở rộng. Các mạng tin học cần tổ chức tốt việc hợp tác và phối hợp giữa các mạng với nhau để nâng cao hiêụ quả và chất lượng hoạt động của mình. Nhà nước cần ban hành những thiết chế, chính sách phát triển và quản lí thống nhất các mạng tin học và mạng truyền dữ liệu ở nước ta.
| |
| | | Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: Re: NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) 5/4/2011, 8:24 pm | |
| CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 1. Phân tích thư viện học là bộ môn khoa học: Khái niệm, đối tượng, lịch sử hình thành và phát triển, mối quan hệ của thư viện học với các bộ môn khoa học khác. 2. Trình bày các hệ thống thư viện: Thư viện phổ thông, thư viện khoa học; đồng thời phân tích phục vụ độc giả trong thư viện và ngoài thư viện? 3. Trình bày thông tin học là bộ môn khoa học? Đồng thời phân tích hoạt động thư viện và thư mục là các ngành khoa học thực nghiệm của thông tin học? 4. Phân tích thông tin học và thực tiễn xã hội? Đồng thời trình bày thông tin khoa học kỹ thuật là nguồn lực của mỗi quốc gia; thông tin phục vụ cán bộ lãnh đạo và quản lí, vai trò của thông tin trong giáo dục và đào tạo. 5. Phân tích quá trình hoạt động thông tin khoa học và công nghệ? Đồng thời trình bày các mạng thông tin và truyền dữ liệu, sự bùng nổ thông tin, xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hoá. Các mạng tin học quốc tế và Việt nam. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 126 Chương III: BỘ MÁY TRA CỨU...........................................128 III.1. Bộ máy tra cứu truyền thống.....................................128 III.1.1 Kho tra cứu.............................................................128 III.1.1.1 Bách khoa toàn thư, từ điển bách khoa..................130 III.1.1.2 Nguồn tài liệu tra cứu nhanh (Ready Reference Sources..............................................................................131 III.1.1.3 Từ điển (Dictionary).............................................134 III.1.1.4 Nguồn tiểu sử (Biographical Sources).....................135 III.1.1.5 Nguồn tra cứu địa lí. (Geographical Sources).........137 III.1.1.6 Tài liệu chính phủ (Government Document)..........138 III.1.1.7 Bảng chú dẫn (Index)...........................................139 III.1.2 Thư mục (Bibliography)...........................................140 III.1.2.1 Khái niệm............................................................140 III.1.2.2 Các loại thư mục..................................................142 III.1.2.2.1 Thư mục quốc gia (National Bibliography)..........142 III.1.2.2.2 Thư mục thông báo...........................................143 III.1.2.2.3 Thư mục giới thiệu............................................144 III.1.2.2.4 Thư mục phê bình............................................144 III.1.2.2.5 Nhóm thư mục đặc biệt....................................145 III.1.3 Hệ thống mục lục....................................................146 Chương IMII ucï lucï PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 127 III.1.3.1 Mục lục chữ cái....................................................147 III.1.3.2 Mục lục phân loại ................................................150 III.1.3.3 Mục lục chủ đề.....................................................152 III.2 BỘ MÁY TRA CỨU HIỆN ĐẠI.....................................153 III.2.1 Nguồn tra cứu điện tử...............................................153 III.2.2 Thư mục..................................................................157 III.2.3 Mục lục đọc máy (Machine Readable Cataloging - MARC)...............................................................................158 III.2.4 Trung tâm thư viện máy tính trực tuyến (Online Compu -ter Library Center - OCLC) ................................................160 III.2.5 Mục lục truy nhập công cộng trực tuyến (Online Public Access Cataloging- OPAC)..................................................161 III.2.6 Hệ thống trợ giúp tìm tin trực tuyến (Online).............161 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III .........................................164 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 128 CHƯƠNG III BỘ MÁY TRA CỨU III.1. BỘ MÁY TRA CỨU TRUYỀN THỐNG III.1.1 Kho tra cứu Kho tra cứu giữ một vị trí rất quan trọng trong hệ thống kho sách thư viện và các cơ quan thông tin. Đây là một bộ sưu tập đặc biệt bao gồm nhiều loại hình tài liệu có nội dung phong phú, đa dạng đề cập đến mọi vấn đề khoa học, công nghệ, văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ... nhằm giúp tra tìm, so sánh, đối chiếu... các thông tin về mọi lĩnh vực của tri thức và đời sống. Đối với bạn đọc, kho tra cứu giúp tìm hiểu, tham khảo từ những vấn đề chung nhất như những nền văn minh, các châu lục, các quốc gia... cho đến những nội dung cụ thể, chi tiết như tên tuổi một nhân vật, công thức của một hợp chất hoá học, ý nghĩa của một biểu tượng hay nghĩa của một từ... Có thể chia ra nhiều loại tài liệu tra cứu tuỳ theo đặc điểm nội dung, ý nghĩa sử dụng và phương pháp biên soạn. Một cách khái quát nhất có thể chia ra các nguồn như sau: PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 129 * Bách khoa toàn thư: Nguồn tra cứu độc lập được sử dụng nhiều nhất là bách khoa toàn thư. Đây là loại tài liệu chứa đựng những bài viết ngắn gọn và khá đầy đủ những thông tin cơ bản của các vấn đề về mọi lĩnh vực tri thức. Bách khoa toàn thư được sử dụng để trả lời những câu hỏi riêng về chủ đề hoặc nhân vật cụ thể. Các bộ bách khoa toàn thư có giá trị là Encyclopedia Britannica, WorldBook Encyclopedia. * Nguồn tra cứu sự việc, sự thật bao gồm niên giám, niên lịch, sách chỉ nam, giáo khoa và hướng dẫn. Các loại này tuy khác nhau về cấu trúc, nội dung và chất lượng nhưng cùng chung một điểm là dùng để tra cứu nhanh về các sự việc cụ thể, các diễn biến thực. Tiêu biểu là các bộ World Almanac, Yearbook. * Nguồn từ điển liên quan đến mọi khía cạnh cơ sở của từ ngữ, từ việc xác định nghĩa cho đến kiểm tra chính tả như: Webster’s Third New International Dictionary, Dictionary of American Slang * Nguồn tiểu sử là những nguồn chứng thông tin về con người trên mọi lĩnh vực của đời sống như Who’s Who, Current Biography. * Nguồn địa lí: Những loại có giá trị nhất là sách bản đồ trong đó giới thiệu không chỉ các thông tin cơ bản các nước mà còn những hình bản về quá trình phát triển lịch sử, phát triển xã hội và các trung tâm khoa học. Nguồn địa lí cũng bao gồm từ điển địa lí, từ điển tên địa danh, các sách hướng dẫn du lịch và các tài liệu địa lí khác như The Time Atlas of the World. * Nguồn tài liệu chính phủ là những xuất bản phẩm chính thức được các cơ quan chính quyền trung ương hoặc địa phương đặt hàng hoặc trực tiếp xuất bản. Bởi vì nó có thể bao gồm các tài liệu chỉ dẫn và tài liệu nguồn nên sự tách biệt nó thành một loại hình riêng chủ yếu để tổ chức và phục vụ thuận lợi hơn. Dưới đây là nội dung chi tiết về từng nguồn tài liệu tra cứu NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 130 III.1.1.1 Bách khoa toàn thư, từ điển bách khoa (Encyclopedia): Là những công trình tra cứu lớn chứa đựng các mục về nhiều chủ đề rộng lớn hoặc những khía cạnh phong phú của những lĩnh vực riêng biệt, thường được sắp xếp theo vần chữ cái của một loại ngôn ngữ. Với chức năng là một loại sách công cụ tra cứu tổng hợp hoặc chuyên ngành được biên soạn một cách nghiêm túc, bách khoa toàn thư phản ánh trình độ phát triển văn hoá, khoa học của một quốc gia trong từng thời kì lịch sử. Bách khoa toàn thư bắt nguồn từ một từ Hy lạp là enkoklios paideia bao gồm enkoklios “chu kì, định kì, thông thường” và paideia “giáo dục” với ý nghĩa là giáo dục đại cương về nguồn gốc của nghệ thuật và khoa học giúp mở mang trí tuệ của con người. Năm 1531 nó chuyển thành từ la tinh là Encyclopaedie với nghĩa là bài giáo dục tổng quát. Năm 1644 được chuyển sang từ tiếng Anh là Encyclopedia. Sách mang tính bách khoa đã xuất hiện từ thời Hy lạp cổ đại, một số bài giảng về vật lí học, siêu hình học, luân lí học của học giả Arixtot (257-180 BC) được coi là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên trên thế giới. Ở Việt nam, bộ Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn (1726-1784) viết thế kỉ 18 và bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840) hoàn thành năm 1820 là những bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt nam. Ở Phương Tây, bách khoa toàn thư phát triển theo ba thời kì: Thời kì cổ đại có 2 bộ Khoa học giải nghĩa gồm 9 tập nêu các nội dung về ngôn ngữ học, toán học, thiên văn học, âm nhạc, kiến trúc và y học và Lịch sử tự nhiên gồm 37 tập. Thời kì trung đại, bách khoa toàn thư được biên soạn nhằm phục vụ chủ yếu cho nhà thờ, tăng lữ. Tuy nhiên ở giai đoạn cuối đặc biệt trong thời kì phục hưng bách khoa toàn thư đã phát huy được vai trò nâng cao trí thức, mở mang hiểu biết cho nhân dân. Phương pháp sắp xếp mục từ đã chuyển dần từ phân loại khoa học sang sắp xếp theo vần chữ cái. Đáng chú ý nhất là cuốn Từ điển bách khoa do J.J. Hoffman soạn năm 1677. Mở đầu cho thời kì hiện đại, nhà triết gia Pháp Denis Diderot (1713-1784) và D’Alembert (1717- PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 131 1783) soạn thảo bộ Bách khoa toàn thư hay Từ điển giải thích về khoa học, nghệ thuật và ngành nghề gồm 35 tập, xuất bản những năm 1751-1780. Tiếp đó các nước Đức, Mỹ, Anh, Liên xô, Trung quốc, Nhật... cũng biên soạn và xuất bản nhiều bộ bách khoa toàn thư. Nổi tiếng nhất là các bộ Đại từ điển bách khoa Larousse 10 tập của Pháp, bộ Britanica 24 tập của Anh, bộ Americana 30 tập của Mỹ, bộ Đại bách khoa từ điển gồm 14 tập của Trung quốc. Trong quá trình phát triển xây dựng các loại hình tài liệu tra cứu, cùng với bách khoa toàn thư (Encyclopedie), xuất hiện thêm từ điển bách khoa (Dictionaire encyclopedies) nhằm nhấn mạnh đến ý nghĩa là loại sách tra cứu về một hoặc nhiều lĩnh vực kiến thức, được sắp xếp, trình bày theo kiểu từ điển. Sự khác nhau giữa bách khoa toàn thư và từ điển bách khoa chủ yếu là ở độ nông sâu và độ dài ngắn về nội dung tri thức biên soạn cho mỗi mục từ phục vụ các đối tượng khác nhau. Các mục từ trong bách khoa toàn thư được biên soạn kĩ hơn, cung cấp tri thức sâu và chi tiết hơn, tính hệ thống giữa các mục từ và trong cơ cấu của cả bộ sách chặt chẽ, lô gích hơn. Từ điển bách khoa cung cấp tri thức ngắn gọn hơn cho từng vấn đề, từng mục từ và số mục từ cũng ít hơn so với bách khoa toàn thư. (Thông thường dung lượng của từ điển bách khoa chỉ một hoặc vài tập) III.1.1.2 Nguồn tài liệu tra cứu nhanh (Ready Reference Sources) Bao gồm Sách lịch (Almanac), Niên giám (Yearbook), Sách chỉ nam (Handbook), Sách giáo khoa (Manual) và Sách chỉ dẫn, Danh bạ (Directory) . Câu hỏi cho tài liệu tra cứu nhanh là những câu hỏi về sự việc cụ thể. Đây là loại câu hỏi có thể trả lời nhanh chóng từ những nguồn tài liệu tra cứu đơn lẻ và súc tích. Nói chung câu hỏi nhanh chỉ cần không quá 1 hoặc 2 phút để tìm câu trả lời. Tuy nhiên nó có thể được phát triển trong một câu hỏi tổng hợp khi không có thể xác định ngay lập tức nguồn trả lời NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 132 và phải mất nhiều thời gian và nỗ lực để tìm lời giải. Hoặc câu hỏi sẽ trở thành một chủ đề tra tìm và nghiên cứu bởi vì người tìm nó cần nhiều dữ liệu hơn vấn đề trực tiếp hỏi (ngụ ý câu hỏi ). Ví dụ bạn đọc cần địa chỉ một công ty có thể cần thực sự không riêng địa chỉ đó mà còn muốn có những thông tin chi tiết để có thể xin việc, hoặc lấy số liệu làm báo cáo, hoặc muốn tìm hiểu để điều tra... Sách lịch là bản tóm tắt các dữ liệu tiện ích và số liệu thống kê liên quan tới các nước, các vùng, các cá nhân, các sự kiện, các chủ đề riêng. Hầu hết sách lịch chủ đề riêng được xuất bản hàng năm hoặc hai năm. Đôi khi nó còn được gọi là niên giám hay niên lịch. Thông thường sách lịch gồm những vấn đề chung trong tự nhiên còn niên giám và niên lịch đi sâu hơn về chuyên ngành. Nó thường được hạn chế trong một số lĩnh vực hoặc chủ đề. Hiện nay xuất hiện một số sách lịch chủ đề và niên giám bách khoa tập hợp nội dung đa dạng như loại sách lịch tổng hợp. Niên giám, niên lịch là bản tóm tắt các dữ liệu và thống kê của năm đó, trong khi sách lịch bao gồm tài liệu của cả những năm trước. Điều khác nhau chủ yếu là sách lịch đưa vào cả những tài liệu hồi cố còn mục đích cơ bản của niên giám, niên lịch là ghi chép lại những hoạt động của các vùng, các chủ đề hoặc lĩnh vực riêng trong năm đó. Sách chỉ nam (Handbook), Sách giáo khoa (Manual) và Sách chỉ dẫn, danh bạ (Directory) Nhóm tiếp theo của nguồn tra cứu nhanh bao gồm sách chỉ nam, sách giáo khoa và sách chỉ dẫn, danh bạ. Thực tế rất khó phân biệt giữa sách chỉ nam và sách giáo khoa thông thường vì vậy có thể dùng như từ đồng nghĩa. Mục đích chính của nguồn sách chỉ nam và sách giáo khoa là cung cấp những lĩnh vực kiến thức. Loại tài liệu này nhấn mạnh đến những kiến thức đã được khẳng định hơn là sự phát triển gần đây của những kiến thức đó mặc dù trong lĩnh vực khoa học, sách chỉ nam của một số năm trước hầu như rất ít sử dụng. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 133 Đặc biệt sách chỉ nam khoa học bao hàm kiến thức cơ sở của lĩnh vực chủ đề. Phần lớn thông tin được cung cấp dưới dạng tốc kí, bảng biểu, sơ đồ, biểu tượng, phương trình, thuật ngữ chuyên ngành... chỉ những chuyên gia mới có thể hiểu. Một số tài liệu giáo khoa chuyên ngành cũng tương tự như vậy. Sách chỉ nam và giáo khoa có một điểm chung là phạm vi hạn chế. Thực tế giá trị đặc biệt của nó là thông tin chuyên sâu trong lĩnh vực hẹp. Có rất nhiều sách chỉ nam và giáo khoa. Một số xuất hiện mỗi năm trong khi một số khác mất đi hoặc được thay tên. Sách chỉ dẫn các viên chức, người sản xuất... có thể thấy trong hầu hết các thư viện, bổ sung cho những tài liệu tra cứu chuẩn. Nội dung sách chỉ dẫn rất phong phú, từ các sách hướng dẫn thành phố, các danh bạ điện thoại cho đến các chỉ dẫn mã vùng. Trong cuốn chú giải thuật ngữ thư viện The A.L.A.Glossary of Library Terms đã xác định sách chỉ dẫn là “danh mục của cá nhân hoặc tổ chức được sắp xếp một cách hệ thống thường theo thứ tự chữ cái hoặc phân loại, giới thiệu địa chỉ, mối quan hệ của các cá thể và các địa chỉ, quan chức, nhiệm vụ và những dữ liệu tương tự của các tổ chức”. Nhu cầu tin kiểu chỉ dẫn chiếm số lượng lớn trong các yêu cầu tin tại thư viện, nhất là các thư viện công cộng. Nó giải đáp các câu hỏi tìm các cá nhân, chuyên gia và các tổ chức thông qua các địa chỉ, số điện thoại, mã vùng, tên chính xác của cơ quan, tổ chức hay cá nhân. Mục đích của sách chỉ dẫn là nhằm tìm ra: - Địa chỉ hoặc số điện thoại của các cá nhân hoặc các hãng, công ty. - Tên đầy đủ của cá nhân, hãng hoặc các tổ chức. - Miêu tả các sản phẩm hoặc dịch vụ của các xí nghiệp, công ty. - Tên của chủ tịch, giám đốc các hãng, công ty; hiệu trưởng nhà trường; những người có trách nhiệm hoặc quảng cáo bán hàng. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 134 Với số lượng ít hơn và các nhu cầu hạn chế nhưng rất cập nhật - thông tin về tiểu sử cá nhân hoặc về chức vụ chủ tịch, giám đốc hãng; hãng đó có còn tiếp tục hoạt động hay không? Các dữ liệu lịch sử và hiện tại về các viện, các công ty hoặc các nhóm chính trị: (thành lập khi nào, bao nhiêu thành viên...); các địa chỉ giao dịch thương mại.. sách chỉ dẫn thường được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội sử dụng để tách biệt một số nhóm quan tâm cho công tác nghiên cứu. Sách chỉ dẫn là loại tài liệu tra cứu dễ sử dụng hơn các loại khác vì phạm vi trung bình, cách chỉ dẫn trong nhan đề và kiểu của thông tin được hạn chế và thường được giới thiệu theo một trật tự chung, cách thể hiện rõ ràng. Có nhiều cách để phân loại sách chỉ dẫn song nói chung có thể chia ra các loại sau: - Chỉ dẫn về địa phương - Chỉ dẫn về chính phủ - Chỉ dẫn về các công trình phúc lợi công cộng: Bệnh viện, trường học, bảo tàng, thư viện... - Chỉ dẫn nghề nghiệp - Chỉ dẫn về buôn bán thương mại - Dịch vụ đầu tư III.1.1.3 Từ điển (Dictionary). Theo The American Heritage Dictionary of the English Language từ điển là một loại sách tra cứu chứa đựng danh mục của các từ xếp theo vần chữ cái, giới thiệu các thông tin về mỗi từ gồm ý nghĩa của từ, cách phát âm và nguồn gốc của từ. Hoặc là một cuốn danh mục từ của một ngôn ngữ này đối chiếu/chuyển sang một ngôn ngữ khác. Từ điển cũng có thể là một cuốn danh mục từ hoặc những thuật ngữ chuyên ngành của một lĩnh vực hoặc chủ đề khoa học riêng, giải thích chi tiết, cặn kẽ về nghĩa của từ được sử dụng trong chuyên ngành đó. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 135 Có thể rút ra định nghĩa về từ điển như sau: từ điển là một loại sách tra cứu tập hợp các đơn vị ngôn ngữ sắp xếp theo một trật tự nhất định nhằm cung cấp những thông tin cần thiết như cách phát âm, từ nguyên, từ loại, nghĩa, hình thức dịch đối chiếu... Hai loại từ điển chính là từ điển giải thích (giải thích các nghĩa của từ) và từ điển song ngữ (đối chiếu ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác). Có một định nghĩa vui song phản ánh rất chính xác ý nghĩa tra cứu của từ điển: đó là một loại sách hầu như mọi người đều đọc song không bao giờ đọc hết cuốn. Quan niệm chung cho rằng chỉ có một loại từ điển, song sự thực với nội dung bao hàm nhiều lĩnh vực, từ điển có thể được phân chia thành 7 loại sau: ● Từ điển ngôn ngữ đối chiếu ● Từ điển bỏ túi không nhiều hơn 30.000-55.000 từ, loại này được dùng nhiều vì rẻ tiền và tiện mang theo người. ● Từ điển lịch sử ngôn ngữ trình bày lịch sử của từ, từ khi bắt đầu sử dụng tới nay ● Từ điển từ nguyên gần giống như từ điển đầu đề nhưng có khuynh hướng nhấn mạnh hơn đến việc phân tích sự cấu thành và nguồn gốc chung với ngôn ngữ khác. ● Từ điển đầu đề tiếng nước ngoài là loại từ điển song ngữ giải thích nghĩa của từ với một ngôn ngữ khác. ● Từ điển chuyên đề tập chung giải thích các từ theo các ngành, lĩnh vực về khoa học và kĩ thuật. ● Các từ điển “khác” bao gồm hầu hết các loại từ điển viết tắt, từ điển tiếng lóng đến các loại từ điển sử dụng riêng. III.1.1.4 Nguồn tiểu sử (Biographical Sources) Nguồn tiểu sử là nguồn tài liệu cung cấp những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của các cá nhân. Thông thường tiểu sử giới thiệu các nhân vật lịch sử, các danh nhân, nhà NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 136 hoạt động chính trị, văn hoá, nhà khoa học, văn nghệ sĩ... Tuy nhiên cũng có những cuốn tiểu sử giới thiệu những người lãnh đạo, người quyền quý và những người có trách nhiệm khác trong các hãng, các công ty hay cơ quan và các tổ chức nhà nước, tổ chức tư nhân. Nguồn tiểu sử thường giới thiệu họ và tên nhân vật, biệt hiệu, bút danh, năm sinh và năm mất, nơi sinh, quê quán, địa chỉ, số điện thoại, quá trình hoạt động, các công trình nghiên cứu, sáng tác, phát minh. Một số tiểu sử chi tiết còn giới thiệu kĩ cả về cha mẹ, vợ con nhân vật, về lịch sử tóm tắt, thậm chí còn trích giới thiệu một phần những công trình quan trọng của nhân vật. Nguồn tiểu sử có ích lợi cho hầu hết mọi người từ nhà nghiên cứu tới người không thuộc chuyên ngành. Do vậy hầu hết danh mục của nhà xuất bản đều có các tài liệu tiểu sử, từ các tiểu sử cá nhân của các bộ tuyển tập cho tới các danh sách đặc biệt của các cá nhân trong các lĩnh vực chuyên môn. Sự phát triển nhanh của dân số và các ngành nghề cùng với sự nâng cao trình độ giáo dục là nguyên nhân của sự tăng nhanh các nguồn tài liệu tiểu sử. Các đề mục có khuynh hướng ngày càng tóm lược, nói chung chỉ giới thiệu họ tên, ngày sinh, nơi sinh, trình độ học vấn, chức danh và địa chỉ. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 137 III.1.1.5 Nguồn tra cứu địa lí. (Geographical Sources) Nguồn tra cứu địa lí có thể được sử dụng một cách đơn điệu như để trả lời câu hỏi: “Nó ở đâu” hoặc cũng có thể theo cách tế nhị và phức tạp hơn để giúp giải quyết mối quan hệ giữa các nước liên quan trở nên rõ ràng hơn như vấn đề lãnh thổ, biên giới. Loại câu hỏi đầu tiên và phổ biến nhất là vị trí của một địa phương hay của một thành phố nào đó? Khoảng cách từ nơi này tới nơi kia? Hoặc mùa đông ở Pháp lệch bao nhiêu độ với mùa đông ở Hà nội? Những vấn đề của những tài liệu địa lí liên quan tới khí hậu, môi trường, đặc sản, biên giới hành chính, lịch sử và nhiều vấn đề khác của các vùng đất. Nói chung nguồn tài liệu địa lí giới thiệu dưới hình thức đồ hoạ, cho phép hình dung ra toàn cảnh một triều đại. Ngoài ra một số lượng lớn tài liệu nguồn địa lí là những tác phẩm nghệ thuật, nó thoả mãn những yêu cầu đặc biệt mà khó có thể tìm được trong các nguồn văn bản. Nguồn tài liệu địa lí được phân chia thành 3 loại lớn như sau: - Bản đồ và tập bản đồ (Map & Atlas) - Từ điển địa lí (Gazetteer) - Sách hướng dẫn du lịch (Guidebook) ● Bản đồ giới thiệu đường ranh giới chính thức của trái đất theo bề mặt phẳng. Bản đồ có thể phân chia thành bản đồ bề mặt phẳng, bản đồ chi tiết, bộ sưu tập các bản đồ trong tập bản đồ, quả địa cầu... Bản đồ tự nhiên sao lại những nét chính của vùng đất từ sông ngòi và châu thổ tới núi đồi. Bản đồ đường sá trình bày đường bộ, đường sắt, cầu cống... Bản đồ chính trị nói chung chỉ giới hạn trong việc định ranh giới các vùng lãnh thổ, các thành phố, thị xã, quận, huyện... song cũng có thể bao gồm cả những nét chính về địa hình và đường sá. Hoặc riêng biệt, hoặc kết hợp với nhau, 3 loại bản đồ này tập hợp lại thành một số lượng lớn các bản đồ để hình thành tập bản đồ. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 138 Một nhóm khác của bản đồ là các bản đồ chủ đề, loại này thường quan tâm đến các khả năng đặc biệt của bản đồ. Có thể tra tìm ở đây những vấn đề về lịch sử, kinh tế, chính trị... được thể hiện dưới hình thức đồ hoạ trên bản đồ. ● Từ điển bản đồ là những từ điển địa lí, thông thường là các địa danh. Từ đây sẽ tra ngược lại để tìm ra thành phố, núi, sông hay các đặc điểm tự nhiên khác nằm ở đâu. Từ điển bản đồ chi tiết sẽ đưa thêm vào các thông tin về dân số và những yếu tố kinh tế chủ đạo của vùng. ● Sách hướng dẫn du lịch rất cần thiết cho việc xác định hoặc hướng dẫn. Nó bao gồm mọi thông tin từ giá cả của một phòng khách sạn ở Paris hay NewDeli tới những thắng cảnh ở Pnompenh hay Boston. III.1.1.6 Tài liệu chính phủ (Government Document) Tài liệu chính phủ không phải là toàn bộ luật pháp, công nghệ hay một loại ấn định nào. Tài liệu chính phủ bao gồm nhiều loại hình khác nhau từ báo cáo về quân sự tới quá trình sinh trưởng của cây cảnh. Song tất cả đều có một điểm chung là số lượng rất lớn. Tài liệu chính phủ là bất kì một xuất bản phẩm nào do chính phủ cấp chi phí in ấn hoặc do các cơ quan của chính phủ xuất bản. Những tài liệu được quan tâm thường là của các cơ quan như: Quốc hội, toà án, cơ quan hành pháp. Dưới góc độ sử dụng, tài liệu được phân chia thành: ● Hồ sơ của cơ quan hành chính nhà nước ● Tài liệu nghiên cứu của các chuyên viên bao gồm số lượng lớn các bản thống kê và dữ liệu có giá trị khoa học và kinh doanh cao. ● Nguồn thông tin đại chúng: Có thể là sách, bản thảo, vi phim và mọi loại hình xuất bản khác. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 139 III.1.1.7 Bảng chú dẫn (Index) Chú dẫn là một quá trình phân tích tài liệu, thường theo dấu hiệu họ tên người và chủ đề. Bởi vì hầu hết các xuất bản phẩm: Sách báo, tạp chí... tổng hợp nhiều vấn đề khác biệt nên cần thiết phải được chú dẫn để chọn lọc những vấn đề chủ yếu phục vụ nhu cầu của người đọc: Danh từ “chú dẫn” được bắt nguồn từ một động từ gốc la tinh “dicare” có nghĩa là “trưng bày, giới thiệu ra”. Nguồn chú dẫn tốt phải đưa ra được các hướng tra cứu phong phú từ tác giả, nhan đề cho tới chủ đề và nhà xuất bản, để cho phép người dùng dễ dàng tìm được những điều cần thiết. Phương pháp tổ chức sắp xếp chú dẫn phải đơn giản và thuận tiện nhất. Người đọc tiếp cận chú dẫn theo nhiều cách khác nhau với những lí do khác nhau. Các học giả và nhà nghiên cứu muốn tìm kiếm tác giả một bài báo hay một quyển sách, họ biết các tác giả đó là chuyên gia trong lĩnh vực nào. Trong trường hợp này đó là phương pháp đi trực tiếp tới nguồn nhanh hơn cách tiếp cận theo chủ đề. Tuy nhiên đối với sinh viên họ không biết ai nổi tiếng trong lĩnh vực nào thì thường tìm tài liệu theo chủ đề. Một số loại chú dẫn thường gặp là: + Chú dẫn xuất bản phẩm định kì gồm có: (1) Chú dẫn tổng hợp cho nhiều loại tạp chí theo một hoặc nhiều chủ đề; (2) Chú dẫn chủ đề bao gồm không chỉ tạp chí mà còn một số loại hình xuất bản phẩm khác mục đích là nhằm chú dẫn các tài liệu trong chủ đề hẹp. Ví dụ như Chú dẫn ứng dụng khoa học và công nghệ (Applied Science & Technology Index); (3) Chú dẫn một loại tạp chí: Trước đây khá phổ biến, ngày nay ít được xuất bản. Một trong những chú dẫn khá nổi tiếng loại này là National Geographic Index từ 1888 - 1988 (Mỹ). + Chú dẫn báo được xuất bản khá nhiều ở Mỹ, Anh, Pháp trong đó nổi bật là The New York Times Index. + Chú dẫn xuất bản phẩm liên tục: Bao gồm cả chú dẫn NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 140 những tài liệu xuất bản và những tài liệu không xuất bản như kỉ yếu hội nghị khoa học và các tài liệu đại hội, các tài liệu chính phủ... + Chú dẫn bộ sưu tập: Chú dẫn các sưu tập thơ kịch, tiểu thuyết, bài hát... + Chú dẫn khác: là chú dẫn cho tất cả các loại tài liệu từ sách, sáng chế phát minh, tiêu chuẩn tới âm nhạc... III.1.2 Thư mục (Bibliography) III.1.2.1 Khái niệm Bắt nguồn từ một danh từ cổ Hy lạp được ghép gồm hai thành phần Biblio (Sách) và Grapho ( Ghi chép), thuật ngữ (Bibliographo) có nghĩa là cuốn ghi chép về sách vở. Theo gốc Hán Việt, thư mục cũng có nghĩa là bản kê các sách vở được sắp xếp thứ tự. ở Phương Đông đồng nghĩa với thư mục còn có Kinh tịch chí. Trong cuốn The American Heritage Dictionary of the English Languages thư mục được giải thích là: (1) Danh mục các tác phẩm của một tác giả hoặc một nhà xuất bản; (2) Danh mục các bài viết liên quan đến một chủ đề; (3) Danh mục các tài liệu được sử dụng hoặc tham khảo của một tác giả trong quá trình biên soạn, sáng tác một tác phẩm. Như vậy thư mục là một bản danh mục giới thiệu vắn tắt những đặc điểm, nội dung cơ bản của sách, báo, tài liệu viết về một hoặc một số vấn đề, được sắp xếp hệ thống, khoa học nhằm giúp người đọc truy tìm và sử dụng nhanh chóng, phù hợp với trình độ và yêu cầu. Ở Pháp, đặc biệt trong những năm cuối thế kỉ 18, hoạt động thư mục được nổi bật như một sự tiến bộ của khoa học thư viện. ở Mỹ và Anh hiện nay có khuynh hướng phân chia thành thư mục phê bình, thư mục phân tích, thư mục lịch sử. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 141 Khi nói đến thư mục có nghĩa là nói đến việc nghiên cứu sách và lập danh mục sách và các vật mang tin khác. Thư mục sẽ nói cho bạn đọc biết - cùng với những điều khác - ai là tác giả của sách, ai xuất bản nó và xuất bản ở đâu? Khi nào nó đã được xuất bản... Khi một tài liệu được đưa vào thư mục, bạn đọc có thể biết: tài liệu đó có trong thư viện hay không và có thể đọc được không? Nếu tài liệu không có trong thư viện, có thể đọc nó ở đâu và hiện họ có thể mượn nó qua thủ tục cho mượn giữa các thư viện được không? Thư mục không chỉ giới hạn sách mà còn áp dụng cho các loại hình vật mang tin khác từ phim và băng từ tới phần mềm máy vi tính và ảnh. Ví dụ thư mục về nhà văn Hemingway sẽ bao gồm cả sách, phim, tranh ảnh... về chủ đề này. Một bản thư mục tốt cần đáp ứng những yêu cầu sau: ● Tính hoàn chỉnh: Thông qua một bản thư mục riêng hoặc kết hợp nhiều bản thư mục, cán bộ thư viện có thể truy nhập tới các biểu ghi hoàn chỉnh của mọi lĩnh vực quan tâm. Cả những biểu ghi hiện tại và quá khứ. Thư mục chỉ ra không những các tài liệu đang xuất bản mà còn giúp định hướng những tài liệu sẽ xuất bản. ● Tính chi tiết: Nói chung thư mục giới thiệu các tác phẩm nguyên vẹn như một cuốn sách, một bản tạp chí, một báo cáo... nhưng thư mục cũng có thể giới thiệu những phần riêng trong một tài liệu như các thư mục bài trích sách, trích báo, tạp chí... ● Tính đa dạng: Thông thường sách là thành phần chính của hầu hết các bản thư mục, nhưng thư mục cũng bao gồm các loại hình xuất bản khác từ các báo cáo, tài liệu tới các loại hình đa dạng của dữ liệu đọc máy. ● Tính phân biệt: Thư mục thường nêu những thông tin chuẩn tương tự những thông tin được nêu trong mục lục như tác giả, nhan đề, lần xuất bản, nơi xuất bản, đặc điểm số lượng... Một số thư mục còn đưa cả các yếu tố như số tiêu NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 142 chuẩn quốc tế của sách (International Standard Book Number - ISBN) do nhà xuất bản đặt ở trang bên trái của trang tên sách để phân biệt tên sách này với tên sách khác. Cũng với ý nghĩa như vậy số loại chuẩn quốc tế (International Standard Serial Number - ISSN) được đưa vào để phân biệt các xuất bản phẩm định kỳ. ● Tính chỉ chỗ: Tài liệu nằm ở vị trí nào trong thư viện hoặc ở đâu có thể tìm đọc tài liệu. ● Tính chọn lọc: Thư mục giúp cán bộ thư viện và bạn đọc dễ dàng chọn tìm tài liệu từ những kho sách phong phú và đa dạng bằng cách giới thiệu các chủ đề chọn lọc, các nhóm tác giả, các loại hình tài liệu khác nhau hoặc các dạng tài liệu phù hợp với từng nhóm bạn đọc. III.1.2.2 Các loại thư mục. Có thể căn cứ nhiều dấu hiệu khác nhau như phương pháp biên soạn, nội dung tài liệu được tập hợp, mục đích và đối tượng sử dụng... để phân chia các loại thư mục. Các loại thư mục phổ biến hiện nay gồm có: III.1.2.2.1 Thư mục quốc gia (National Bibliography) Đây là loại thư mục tổng hợp có nhiệm vụ thống kê, thông báo đầy đủ nhất tình hình xuất bản phẩm của một quốc gia. Nó còn có tên gọi là “Mục lục xuất bản phẩm lưu chiểu” (Liste des Imprimés Deposés au service sur dépôt légal) Các nước có nguyên tắc biên soạn thư mục quốc gia khác nhau. Việt nam và nhiều nước áp dụng nguyên tắc thu thập tài liệu theo địa dư, nghĩa là tất cả các xuất bản phẩm trong địa phận quốc gia, không phân biệt loại hình, nội dung, ngôn ngữ của tài liệu đều được đưa vào thư mục quốc gia. Do đặc điểm lịch sử hình thành dân tộc đặc biệt, một số nước quy định thư mục quốc gia phải tập hợp toàn bộ tài liệu PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 143 xuất bản bằng ngôn ngữ chính của quốc gia đó, bất kể được xuất bản tại đâu. Ngoài ra còn một nguyên tắc khác trong thu thập tài liệu cho thư mục quốc gia là nội dung của tài liệu đề cập đến đất nước hay dân tộc đó. Có hai loại thư mục quốc gia: 1.Thư mục quốc gia hiện tại (thống kê tài liệu mới xuất bản, được phát hành hàng tháng và tập hợp thành một cuốn mỗi năm) 2.Thư mục quốc gia quá khứ (giới thiệu tài liệu xuất bản từ những năm trước, trong một thời gian dài) như “thư mục xuất bản phẩm trong thời kì chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc Việt nam”. Việc biên soạn thư mục quốc gia được giao cho cơ quan theo dõi và nhận xuất bản phẩm lưu chiểu. Thư mục quốc gia Việt nam do thư viện quốc gia biên soạn và phát hành. III.1.2.2.2 Thư mục thông báo Là thư mục mang tính chất chuyên khoa có nhiệm vụ thông báo các tài liệu quan trọng về các ngành tri thức phục vụ nghiên cứu khoa học và sản xuất. Tiêu chuẩn tài liệu được chọn chủ yếu dựa vào giá trị khoa học, giá trị nghiên cứu, không phụ thuộc thời gian xuất bản, ngôn ngữ hay loại hình tài liệu. Tuy nhiên loại tài liệu được quan tâm là các bài trích sách báo và tạp chí chuyên môn. Có hai loại thư mục thông báo: 1. Thư mục thông báo khoa học tập hợp tài liệu nghiên cứu sâu nhằm phục vụ những đối tượng độc giả nhất định của một ngành hoặc một số ngành khoa học. 2. Thư mục thông báo rộng rãi giới thiệu những tài liệu mới xuất bản cho mọi đối tượng độc giả các ngành nghề khác nhau. Thường gặp loại thư mục này trên các trang báo và tạp chí hoặc xuất bản thành các tập riêng biệt để giới thiệu, quảng cáo một số sách mới xuất bản và sách sắp xuất bản của NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 144 một nhà xuất bản nào đó. Trong các thư viện và cơ quan thông tin, có loại danh mục giới thiệu sách mới nhập treo tại phòng đọc, phòng mượn hoặc gửi tới các cá nhân, bộ phận trong cơ quan. Thư mục thông báo thường được biên soạn tại các thư viện khoa học tổng hợp và chuyên ngành, thư viện các viện nghiên cứu, các trường đại học, thư viện các tỉnh thành phố lớn. Thư mục thông báo rộng rãi do các nhà xuất bản, cơ quan phát hành hoặc các thư viện phổ thông biên soạn. III.1.2.2.3 Thư mục giới thiệu Thư mục giới thiệu được biên soạn nhằm tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn đọc theo chuyên đề cho mọi đối tượng bạn đọc. Đặc điểm nổi bật là nguyên tắc chọn tài liệu rất chặt chẽ cả về nội dung và hình thức. Thư mục chỉ tập hợp những tài liệu tốt nhất chứ không đưa vào tất cả xuất bản phẩm về chuyên đề đó. Về phương pháp biên soạn: mọi tài liệu trong thư mục đều được phân tích nội dung bằng phương pháp dẫn giải để gợi ý, hướng dẫn người đọc nắm được giá trị khoa học, tư tưởng và nghệ thuật của tài liệu. Mặc dù có thư mục giới thiệu nghiên cứu để giúp cán bộ nghiên cứu khoa học sưu tầm tài liệu về các chuyên đề, song có thể coi đối tượng chủ yếu của thư mục giới thiệu là bạn đọc có trình độ văn hoá thấp. Họ cần cán bộ thư mục giúp họ chọn tìm tài liệu hợp trình độ, đúng yêu cầu. Họ cũng cần được giải thích và hướng dẫn để hiểu và cảm thụ đúng giá trị của tài liệu. III.1.2.2.4 Thư mục phê bình Thư mục phê bình có nhiệm vụ phân tích, nhận xét những tác phẩm mới xuất bản, từ đó đánh giá về giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm trên các mặt chính trị tư tưởng, văn PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 145 học nghệ thuật, khoa học... Tuy cùng nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục song thư mục phê bình khác thư mục giới thiệu ở chỗ đối tượng phục vụ rộng rãi hơn và thư mục phê bình thường áp dụng cho những tài liệu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, chủ yếu là tác phẩm văn học. Thư mục phê bình có quan hệ rất gần gũi với công tác phê bình văn học song thư mục phê bình chỉ giới hạn trong phạm vi giáo dục, tuyên truyền các ấn phẩm giúp độc giả tự tìm đọc và tiếp thu đúng đắn giá trị tác phẩm đồng thời giúp tác giả nhận thấy ưu điểm và thiếu sót của họ trong quá trình sáng tác. III.1.2.2.5 Nhóm thư mục đặc biệt Ngoài 4 loại thư mục kể trên, dựa vào nội dung tài liệu và tính chất của tài liệu, có thể bổ sung thêm nhóm thư mục đặc biệt bao gồm thư mục nhân vật, thư mục địa chí, thư mục các tài liệu thư mục (Thư mục bậc 2). ● Thư mục nhân vật: Để phục vụ công tác nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các danh nhân, thư mục nhân vật tập hợp các tài liệu về tiểu sử, sự nghiệp và những tác phẩm của các vị lãnh tụ, các anh hùng dân tộc, các nhà hoạt động nổi tiếng trong các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học, công nghệ. Thư mục nhân vật có thể giới thiệu một nhân vật hoặc một nhóm nhân vật có cùng ngành nghề hay cùng sinh sống ở một địa phương... ● Thư mục địa chí: Các thư viện khoa học tổng hợp tỉnh, thành phố rất chú ý công tác biên soạn thư mục địa chí. Với nhiệm vụ tập hợp tài liệu xuất bản tại địa phương, tài liệu nghiên cứu về địa phương và tài liệu của các tác giả người địa phương, thư mục địa chí là nguồn tài liệu rất quan trọng trong việc nghiên cứu tổng hợp về mọi mặt lịch sử, kinh tế, địa lí, văn hoá, khoa học...của địa phương. Không những giúp nghiên cứu sâu về những đặc điểm kinh tế văn hoá, góp phần phát hiện những tiềm năng thiên nhiên và con người của địa phương, thư mục địa chí còn có tác dụng lớn trong việc giáo dục truyền thống, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu quê NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 146 hương của mọi tầng lớp nhân dân. ● Thư mục các tài liệu thư mục là loại thư mục đặc biệt được biên soạn không phải từ các tài liệu gốc mà trên cơ sở các bản thư mục khác. Thư mục các tài liệu thư mục tập hợp thống kê các bản thư mục các chuyên đề khác nhau với các hình thức khác nhau kể cả những thư mục in trong sách, báo, tạp chí. Mục đích là giúp cán bộ thư mục tra cứu, hướng dẫn, tuyên truyền sách báo, đồng thời trực tiếp giúp đỡ bạn đọc nắm được các nguồn thư mục hiện có. Trong thế giới phong phú đa dạng của các loại hình thư mục, mỗi loại đều có vị trí, nhiệm vụ riêng nhằm đáp ứng nhu cầu của từng loại bạn đọc. Vì vậy người cán bộ thư mục cần hiểu rõ các loại hình thư mục để phát huy tối đa tác dụng của nó phục vụ công tác chuyên môn của mình, đồng thời độc giả nắm vững tính chất, đặc điểm và công dụng của các loại thư mục sẽ nhanh chóng tìm chọn được tài liệu hợp trình độ, đúng yêu cầu, nhờ vậy sẽ tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả nghiên cứu và học tập. III.1.3 Hệ thống mục lục Hệ thống mục lục là công cụ tra tìm tài liệu vô cùng quan trọng trong các thư viện và cơ quan thông tin. Với chức năng phản ánh toàn bộ kho tư liệu theo các đặc điểm khác nhau: Vần chữ cái của tiêu đề miêu tả, nội dung hay chủ đề của tài liệu. Hệ thống mục lục hoàn chỉnh thường có 3 loại: - Mục lục chữ cái - Mục lục phân loại - Mục lục chủ đề Mỗi loại có một vị trí riêng và thích ứng với các phương pháp tra tìm tài liệu khác nhau. Mục lục chữ cái giúp xác định nhanh chóng những tác phẩm của một tác giả. Mục lục PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 147 phân loại phản ánh thành phần nội dung kho tư liệu. Mục lục chủ đề tập hợp tư liệu theo lô gích riêng của từng vấn đề. Ngoài ra còn có mục lục liên hợp được xây dựng trên kết quả phối hợp hoạt động của một số thư viện cùng khu vực hoặc cùng ngành. Riêng cho cán bộ thư viện có thêm mục lục công vụ. III.1.3.1 Mục lục chữ cái Các phiếu miêu tả được sắp xếp trong mục lục chữ cái theo thứ tự vần chữ cái của tiêu đề miêu tả (Họ tên tác giả hoặc tên tài liệu ). Đây là loại mục lục dễ tổ chức, dễ sử dụng và phù hợp với tâm lí, thói quen của đại bộ phận bạn đọc. Do vậy tại những thư viện nhỏ có trình độ xử lí kĩ thuật thấp, mục lục chữ cái đóng vai trò là bộ máy tra cứu duy nhất. Mục lục chữ cái có cấu tạo khá đơn giản, phần chủ yếu là các phiếu miêu tả được sắp xếp theo vần chữ cái họ tên tác giả hay tên tài liệu. Để phân chia hộp phiếu mục lục thành các phần nhỏ giúp tra tìm nhanh chóng, có các phiếu tiêu đề. Phiếu tiêu đề chính (có phần nhô lên ở giữa) thường ghi những chữ cái (VD: A,B,C...); tên tác giả nổi tiếng hoặc tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức. Phiếu tiêu đề phụ (có phần nhô lên ở bên phải hoặc bên trái) thường ghi các bộ phận nhỏ trong một vần (Ba, Bi,...C, Ch,...N, Ng, Nh...) hoặc tên tác giả (Tô Hoài, Tố Hữu...) Trong mục lục chữ cái hầu như toàn bộ tài liệu của tác giả được đưa tập trung vào một khu vực trong ô phiếu. Ngay cả trường hợp tên tác giả không phải là tiêu đề miêu tả (sách có 2 - 3 tác giả) , phiếu bổ sung sẽ giới thiệu tên tác giả như dấu hiệu để sắp xếp phiếu. Vì vậy mục lục chữ cái còn được gọi là mục lục tác giả. Số lượng phiếu tiêu đề phụ thuộc và thay đổi tuỳ theo sự phát triển của kho sách và số lượng phiêú miêu tả, theo quy định nếu có từ khoảng 50 phiếu miêu tả thì dựng 1 phiếu tiêu đề. Với thư viện nhỏ, số lượng phiếu miêu tả ít, nếu dùng nhiều phiếu tiêu đề sẽ gây rối mắt. Ngược lại nếu có quá NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 148 nhiều phiếu miêu tả mà không có đủ phiếu tiêu đề, bạn đọc sẽ khó tìm tài liệu. Bên cạnh phiếu tiêu đề còn có phiếu chỉ chỗ, hướng dẫn. Có hai loại phiếu hướng dẫn. 1.Hướng dẫn về tác giả áp dụng cho các tác giả có nhiều bút danh biệt hiệu nhằm tránh phân tán các tài liệu của cùng tác giả. Khi xếp mục lục cần có phiếu hướng dẫn để tập trung tất cả tài liệu của 1 tác giả vào cùng một vị trí (theo tên thật hoặc theo bút danh, biệt hiệu). Ví dụ: Sao Đỏ xem Nguyễn Lương Bằng Nguyễn Khắc Hiếu xem Tản Đà. Đối với họ tên tác giả nước ngoài được phiên âm khác nhau do các lần xuất bản khác nhau cần hướng dẫn cho bạn đọc tới phiên âm đúng nhất. Ví dụ: Mã Khắc Tư xem Mác Đi phô Đa ni en xem Đê phô Đa ni en. 2.Hướng dẫn tài liệu áp dụng cho những tài liệu có tên bắt đầu bằng điều lệ, nghị quyết, báo cáo... của các cơ quan, tổ chức được miêu tả theo tên tác giả tập thể. Để giúp bạn đọc nhanh chóng tìm được tài liệu, cần có phiếu chỉ chỗ. Ví dụ: Điều lệ xem Tên cơ quan; Nghị quyết xem Tên cơ quan. Nguyên tắc sắp xếp phiếu trong mục lục chữ cái khá linh hoạt. Đối với những thư viện nhỏ ít tài liệu, có thể xếp chung hộp phiếu cho các ngôn ngữ có cùng nguồn gốc như Mục lục chữ cái La tinh (Anh, Pháp, Đức), Mục lục chữ cái Xlavơ (Nga, Bun ga ry, Xéc bi), Mục lục chữ cái tượng hình (Trung quốc, PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 149 Triều tiên). Những thư viện lớn có kho sách ngoại văn phong phú sẽ tổ chức các hộp mục lục riêng cho từng ngôn ngữ. Hiện nay, ở Việt nam có hai trường phái sắp xếp mục lục họ tên tác giả cá nhân khác nhau. Một trường phái áp dụng nguyên tắc miêu tả thuận, tức là theo đúng trật tự Họ- Đệm- Tên. Khi tổ chức mục lục, lấy dấu hiệu Họ làm cơ sở để sắp xếp. Tiếp đó xét đến Đệm và Tên, đúng như trật tự bình thường của họ tên người Việt nam. Ví dụ: Đặng Thai Mai Phan Huy Lê Một trường phái khác áp dụng nguyên tắc miêu tả đảo, đưa Tên (kể cả tên kép) lên trước rồi mới tới Họ, Đệm. Các thứ tự để xếp mục lục chữ cái là Tên tác giả, sau đó xét đến Họ và cuối cùng là tên Đệm. Ví dụ: Diệu Linh (Nguyễn thị) Duật (Phạm Tiến) Khánh (Đinh Gia) Đặc biệt có một số thư viện, khi miêu tả vẫn theo thứ tự thuận Họ- Đệm- Tên, nhưng khi tổ chức mục lục lại căn cứ vào Tên tác giả chứ không phải Họ tác giả, để xếp. Tuy nhiên, dù theo phương pháp sắp xếp thuận hay đảo tên tác giả, các đơn vị mục từ phải theo đúng trật tự chữ cái như sau: Ă, Â, B, C, D, Đ, E, F, G, H, I, J, K, L, M, O, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ư, V, Ư, X, Y, Z Đồng thời theo thứ tự dấu giọng: Không, huyền( `), hỏi(?), ngã(~), sắc(‘), nặng(.). Khuynh hướng hiện nay đang tiến tới thống nhất miêu tả NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 150 thuận trong công tác biên mục của toàn bộ hệ thống thư viện và cơ quan thông tin. Trường hợp một tác giả có nhiều phiếu miêu tả trong mục lục, thứ tự sắp xếp như sau: Toàn tập, tuyển tập, tác phẩm riêng biệt, các tài liệu viết về tác giả. Các tác giả trùng họ, căn cứ vào chữ cái đầu của đệm, tên để xếp. Tên tác giả tập thể trùng với tên tác giả cá nhân thì xếp tác giả tập thể trước. Ví dụ: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Đoàn Giỏi Một số ngôn ngữ nước ngoài có quán từ, mạo từ như a, an, the (Anh), le, la, les (Pháp), die, das (Đức) đứng ở đầu câu thì bỏ qua và lấy chữ cái đầu của từ tiếp theo làm căn cứ để sắp xếp. Ví dụ:
| |
| | | Admin Admin
Tổng số bài gửi : 165 Join date : 11/12/2010
| Tiêu đề: Re: NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) 5/4/2011, 8:25 pm | |
| Trong chương này đã trình bày một cách có hệ thống những kiến thức cơ sở thông tin học và thư viện học, những hoạt động thực tiễn của thư viện và cơ quan thông tin nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản và phương pháp sử dụng và khái thác nguồn tin tư liệu có hiệu quả trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên trong quá trình đào tạo và tự học gắn liền với thư viện. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 125 Banking system form A hierarchy of clerical level jobs Water world The world we manager hay Les bibliothèques universitaires Conservation des documents La tâche et problèmes III.1.3.2 Mục lục phân loại Cùng với mục lục chữ cái, mục lục phân loại là một trong hai loại mục lục quan trọng nhất của mọi loại hình thư viện và cơ quan thông tin. Nếu như mục lục chữ cái giới thiệu kho PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 151 tư liệu theo đặc điểm hình thức - thứ tự vần chữ cái của các ngôn ngữ - thì mục lục phân loại lại giới thiệu thành phần nội dung của kho tư liệu. Mục lục phân loại được xây dựng trên cơ sở bảng phân loại áp dụng cho công tác phân loại tài liệu của thư viện đó. Nếu thư viện thay đổi bảng phân loại thì mục lục phân loại cũng thay đổi theo cho phù hợp với kí hiệu phân loại trên phiếu miêu tả. Mục lục phân loại bao gồm hai phần: Phần cơ bản nhất và chiếm khối lượng chính là các phiếu miêu tả, phần thứ hai là các phiếu tiêu đề, phiếu chỉ chỗ. Ngoài ra còn có ô tra chủ đề (thường xuất hiện trong các thư viện lớn). Trên cơ sở các kí hiệu phân loại ghi trên phiếu miêu tả, các đề mục được xây dựng. Mức độ chi tiết của đề mục phụ thuộc đặc điểm kho tư liệu và quy mô thư viện, nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc kí hiệu phân loại trên phiếu miêu tả trong một đề mục phải giống nhau và giống kí hiệu phân loại của đề mục. Thứ tự các đề mục phải theo đúng trật tự của bảng phân loại. Trong mỗi đề mục các phiếu miêu tả được sắp xếp hoặc theo thứ tự vần chữ cái hoặc theo thứ tự thời gian ngược (để giới thiệu những tài liệu mới nhất). Tuy nhiên, nếu trong phạm vi đề mục có các tài liệu của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lênin, các chỉ thị nghị quyết của Đảng và Nhà nước thì những tài liệu này luôn được xếp trước tiên. Vị trí các ngôn ngữ của tài liệu trong mỗi đề mục được quy định thống nhất là: 1/ Tiếng dân tộc Kinh; 2/ Tiếng các dân tộc ít người ở Việt nam; 3/ Tiếng nước ngoài. Nhằm giúp người đọc tìm tài liệu nhanh chóng, dễ dàng, cũng giống như mục lục chữ cái, mục lục phân loại có các phiếu tiêu đề và phiếu chỉ chỗ. Hình thức và phương pháp xây dựng như trong mục lục chữ cái. Đặc biệt trong mục lục phân loại còn có ô tra chủ đề, xây dựng trên nguyên tắc nhóm các đề mục của mục lục phân NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 152 loại theo chủ đề. Ô tra chủ đề là “chìa khoá” rất quan trọng hỗ trợ đắc lực bạn đọc tìm nhanh vị trí các đề mục qua hệ thống chủ đề quen thuộc. Các đề mục chủ đề thường được miêu tả trên phiếu kèm theo kí hiệu và được xếp theo thứ tự vần chữ cái tên các chủ đề. Các chủ đề phụ có thể được xếp theo vần chữ cái hoặc lô gích của vấn đề. Để làm nổi bật chủ đề, tên gọi của chủ đề thường đảo danh từ lên trước tính từ. Ví dụ: -Lúa - Trồng - Thu hoạch - Chế biến III.1.3.3 Mục lục chủ đề Với nhiệm vụ giới thiệu thành phần kho sách theo chủ đề của tài liệu, mục lục chủ đề - được sắp theo thứ tự vần chữ cái các chủ đề - có ý nghĩa quan trọng đối với các thư viện khoa học, đặc biệt là các thư viện khoa học chuyên ngành. Khác với mục lục phân loại, thứ tự các đề mục và tiểu đề mục trong mục lục chủ đề tuân theo một lô gích rất chặt chẽ. Về mặt nội dung khoa học, mục lục chủ đề được tổ chức trên cơ sở trật tự hình thức. Các đề mục cạnh nhau không liên quan với nhau về nội dung tri thức. Có thể coi mục lục chủ đề là một loại mục lục bổ sung, hỗ trợ cho mục lục phân loại. Mục lục chủ đề nói chung không phản ánh toàn bộ kho sách như mục lục chữ cái hay mục lục phân loại. Mặc dù cùng được xây dựng trên cơ sở nhóm các đề mục thành chủ đề nhưng ô tra chủ đề và mục lục chủ đề đảm nhận chức năng hoàn toàn khác nhau. Trong khi ô tra chủ đề có tác dụng hướng dẫn người đọc tìm đến vị trí các đề mục trong mục lục phân loại thì mục lục chủ đề lại giới thiệu trực tiếp các tài liệu. PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 153 Để xây dựng mục lục chủ đề, dựa trên nội dung kho tư liệu người ta nhóm thành các chủ đề từ các đề mục chủ đề được định ra khi miêu tả tài liệu, thứ tự sắp xếp các chủ đề chính theo đúng trật tự vần chữ cái, nhưng các chủ đề phụ có thể sắp xếp hoặc theo chữ cái hoặc theo các dấu hiệu khác như địa lí, thời gian, hình thức... Trong mỗi chủ đề chính hay phụ, các phiếu miêu tả vẫn được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái các tiêu đề miêu tả hoặc tên tài liệu đảm bảo tính nhất quán của nguyên tắc sắp xếp. Phiếu hướng dẫn, chỉ chỗ trong mục lục chủ đề có hai loại: Loại thứ nhất chỉ dẫn bằng chữ xem dùng để chỉ chỗ cho những đề mục có nhiều tên gọi khác nhau đến một tên gọi thống nhất; cho các thuật ngữ dịch, viết tắt... loại thứ hai là chỉ dẫn tham khảo, dùng chữ cũng xem, nhằm giới thiệu các chủ đề có liên quan. III.2 BỘ MÁY TRA CỨU HIỆN ĐẠI III.2.1 Nguồn tra cứu điện tử Tất cả các loại tài liệu tra cứu đều đã được xuất bản dưới cả hai dạng, dạng in ấn truyền thống và dạng tài liệu điện tử. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 154 Bạn đọc có thể tra tìm các nguồn tra cứu trên đĩa quang (CDROM) hoặc trực tuyến (online). Dưới đây là một số nguồn tài liệu tra cứu điện tử. Bách khoa toàn thư. Bên cạnh các bộ bách khoa toàn thư và từ điển bách khoa được in ấn thành sách, hiện nay đã có các “cuốn” bách khoa toàn thư trên CD-ROM. Đĩa CD-ROM cải tiến gọi là CD-I (Compact Disk Interative) cho phép cung cấp hình ảnh và âm thanh đã tạo điều kiện cho việc sản xuất các bách khoa toàn thư trên CD-ROM, đặc biệt hiệu quả đối với những bách khoa toàn thư về âm nhạc. Dung lượng của CD-ROM rất lớn, toàn bộ nội dung của 3 bộ bách khoa toàn thư lớn như bộ Americana, bộ Britanica và bộ World Book có thể chứa gọn trong một đĩa CD-ROM. Ngoài ra một số bách khoa toàn thư cơ sở được trở thành một bộ phận của bao gói thông tin trực tuyến. Có thể tra tìm trực tuyến bộ New Encyclopedia Britanica qua dịch vụ của Mead Data Center với NEXIS bất kì thời điểm nào trong ngày hay đêm, giá trung bình là 100 USD /1 giờ. Tuy nhiên việc tra tìm bách khoa toàn thư trực tuyến là không kinh tế. Đồng thời cho tới lúc này việc truyền hình ảnh trực tuyến chưa được thực hiện. Đĩa CD-ROM bách khoa toàn thư có hai ưu điểm cho các thư viện: Các tập lẻ không bị mất hoặc để lẫn tại vị trí khác; cùng một lúc nhiều người có thể tra tìm cùng một “tập” bách khoa toàn thư. Nhưng đối với người dùng cá nhân, chi phí vẫn còn quá cao. Ví dụ CD-ROM Compton’s Multimedia Encyclopedia giá là 895 USD trong khi giá của bộ này dưới hình thức sách in là 699 USD. Nguồn tra cứu nhanh. Tra cứu trực tuyến đặc biệt có ý nghĩa với nguồn tra cứu thông tin của các thư viện. Nó hỗ trợ đắc lực cho việc trả lời các câu hỏi trong một khoảng thời gian rất ngắn. Nhờ đó thư viện không chỉ tiết kiệm được ngân sách mà còn tiết kiệm được cả thời gian và diện tích. Đĩa CD-ROM rất phù hợp với yêu cầu được cập nhật hàng quý, hàng tháng của loại tài liệu PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 155 này. Đĩa CD New York Telephone tập hợp trên 10 triệu số điện thoại của hai thành phố New York và Boston. Từ điển. Một số từ điển đã có thể sử dụng trực tuyến và CDROM. Trong đó thành công nhất và được sử dụng nhiều nhất là Smart Translator cung cấp dịch vụ dịch tự động trong lĩnh vực tài liệu kĩ thuật từ tiếng Anh sang tiếng Pháp, tiếng Tây ban nha, tiếng Italia và tiếng Đức. Ngoài ra có nhiều chương trình xử lí phần mềm máy tính cung cấp dịch vụ kiểm tra chính tả và từ gốc. Ví dụ: Choice Words gồm 80.000 từ trong bộ Webster’s Ninth New Collegiate Dictionary được bổ sung thêm phần từ đồng nghĩa. Hoặc từ điển phiên âm điện tử gồm cả phần mềm và phần cứng trong một chiếc máy nhỏ giúp chữa lại những từ được nhập vào sai chính tả và cho một danh mục những từ đồng nghĩa. Đặc biệt còn giúp phát âm chuẩn của từ. Năm 1990 NTC Publishing Group phát hành đĩa CD-ROM cho 12 ngoại ngữ gọi là Languages of the World bao gồm 7 triệu từ và 18 cuốn từ điển với các chức năng xác định, dịch và giới thiệu từ đồng nghĩa. Từ điển có thể ngay lập tức dịch từ tiếng Anh sang một hoặc tất cả 12 ngoại ngữ (Trung quốc, Đan mạch, Đức, Phần lan, Pháp...) Nguồn địa lí. Với những tiến bộ mới trong việc đưa đồ hoạ và ảnh vào văn bản trong CD-ROM, hầu hết các tài liệu địa lí đã được xuất bản dưới dạng CD-ROM. The Electromap World Atlas sản xuất năm 1990 là đĩa CD-ROM bản đồ đầu tiên, chứa đựng 239 bản đồ thống kê, địa hình, các châu lục và các nước trên toàn thế giới. Các nội dung mới thay đổi được cập nhật hàng năm. Bản đồ điện tử cho phép phóng to hoặc thu nhỏ một lục địa, một nước, một tiểu bang, một thành phố cho đến các chi tiết của một thành phố như một quận, một khu phố, một khối nhà hay một điểm. Bản đồ còn giúp tra tìm mọi địa danh như NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 156 như nhà ga, sân bay, khách sạn; hệ thống giao thông như đường sắt, đường cao tốc, đường tàu điện ngầm. Từ vị trí hiện tại, theo hướng dẫn bằng các mũi tên nhấp nháy trên bản đồ, bạn có thể chọn con đường gần và thuận lợi nhất để tới bất kì một điểm nào trong thành phố bằng tàu điện ngầm, xe buýt công cộng hay xe riêng. Thậm chí mọi chi tiết rất nhỏ trong khu phố từ hệ thống thoát nước tới các nắp cống cũng được chỉ dẫn trên bản đồ. Bảng chú dẫn. Hiện nay hầu hết các dịch vụ chú dẫn đã được thực hiện trên máy, thậm chí nhiều người còn cho rằng đã đến lúc kết thúc thời đại của các bảng chú dẫn in. Nguồn trực tuyến, đĩa CD-ROM và các dạng điện tử khác đã thay thế hàng nghìn bản chú dẫn in. Lí do rất đơn giản là bản chú dẫn điện tử cho phép truy nhập rất nhanh nhiều điểm cùng một lúc và dễ dàng in ra các trích dẫn. Bạn đọc không chuyên môn- đặc biệt là thanh niên- thường tránh các bảng chú dẫn in, không những vì họ không hiểu cách sử dụng nó mà còn bởi vì nó không thể in ra các kết quả tìm được. Xu hướng là đĩa CDROM sẽ chiếm ưu thế trong các thư viện. Song những người có thu nhập cao đủ khả năng thanh toán chi phí đắt đỏ của nguồn trực tuyến thích nguồn trực tuyến hơn vì nó tinh vi, linh hoạt hơn và cập nhật thường xuyên hơn. Dạng thu nhỏ (Microform) được sử dụng trong thư viện để tiết kiệm diện tích kho tư liệu, để tập hợp thư mục và các nguồn nghiên cứu khác, đồng thời cung cấp cho người dùng tin những phương pháp truy nhập dễ PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 157 dàng. Vi phiếu tồn tại theo hai dạng cuộn phim tròn và phiếu phẳng. Cuộn phim tròn tương tự cuộn phim chụp ảnh 35mm. Tấm phẳng có nhiều kích thước khác nhau: Vi phiếu hoặc phiếu với kích thước tiêu chuẩn là 10x15cm chứa khoảng 98 trang/phiếu. Phiếu siêu nhỏ là một tấm nhựa trong suốt 10x15cm, có thể chứa đựng 3000-5000 trang. Vi điểm là tấm phiếu kích thước 15x23cm có sức chứa rất lớn, trung bình 10 hàng và 10 cột trên phiếu bằng 100 trang. III.2.2 Thư mục Thư mục đã khẳng định vai trò chủ đạo của nó nhờ sự phát triển của kĩ thuật. Tra cứu thư mục trực tuyến (Online) hiện tại có thể thực hiện không phải chỉ với một mà là hàng nghìn thư viện từ Mỹ tới Úc. Rất gần gũi với thư mục Book in Print về tài liệu nghe nhìn là NICEM Media Indexs. Mục đích NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 158 của Index này- thực chất là thư mục - là cung cấp thông tin hàng ngày đánh giá về các tài liệu không in ấn (trên 1 triệu tài liệu). Cơ sở dữ liệu trực tuyến của NICEM AV Online cung cấp dịch vụ tra cứu liên quan đến các nhan đề và được cập nhật hàng quý. Trong khi đó đĩa CD-ROM của NICEM được cập nhật hàng năm và giá khá cao (gần 1000 USD). Một tài liệu tương tự Books in Print dưới dạng thu nhỏ là Guide to Microforms in Print. Phiếu này đã tập hợp theo vần chữ cái tên tác giả hoặc tên sách trên 100.000 tài liệu từ 500 nhà xuất bản. III.2.3 Mục lục đọc máy (Machine Readable Cataloging - MARC) Được phát triển từ năm 1990 do Thư viện Quốc hội Mỹ đề xuất nhằm chuyển các thông tin trên phiếu mục lục vào một mẫu ghi có thể đọc, cất giữ và xử lí trên máy vi tính. Trong mẫu ghi MARC mỗi nhan đề riêng biệt - thường tương đương với nhiều mục lục xếp giá, trở thành một mẫu ghi mục lục. Dưới đây là một số khái niệm cơ sở của mẫu ghi MARC: ● Trường: Mỗi vùng mô tả trên phiếu mục lục như tên tác giả, tên ấn phẩm, chi tiết xuất bản, đặc điểm số lượng, chủ đề... được ghi tại một vị trí riêng trong mẫu ghi MARC gọi là trường. Mỗi trường phải có một địa chỉ hoặc nhãn để thông báo với máy tính loại thông tin nào mà trường chứa đựng. Nếu dùng các từ như “tên tác giả”, “tên ấn phẩm”,... thì sẽ chiếm nhiều chỗ trong máy tính, vì vậy 3 chữ số được gọi là nhãn trường (tag) dùng để đại diện cho nội dung của trường. Sử dụng chữ số cũng nhằm đảm bảo rằng trường đó sẽ được áp dụng thống nhất trong mọi lúc mọi nơi. Ví dụ: Nhãn trường 245 là Tên ấn phẩm hoặc 260 là Xuất bản ● Trường con: Một số thông tin trong phạm vi một trường cần phải được chi tiết nhỏ hơn thành các vùng con. VD trường “xuất bản” PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 159 bao gồm: nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản. Các vùng con này phải được thể hiện cùng cấp và theo một trật tự để máy tính có thể hiểu được đâu là kết thúc của một chi tiết và đâu là nơi bắt đầu chi tiết khác. ● Mã trường con: Để giữ các khoảng cách, trước mỗi vùng con đều có một chữ cái nhỏ. Những chữ cái nhỏ này gọi là mã trường con. Trước mỗi mã trường con là một kí tự đặc biệt (=) gọi là dấu “quy định phạm vi trường con”. Bởi vì nhiều bàn phím máy tính không thể hiện được kí tự “quy định phạm vi” (=), nên có thể sử dụng các kí tự đặc biệt khác như gạch ngang (-) hoặc dấu dollar ($) để thay thế. Mã trường con đã tiêu chuẩn hoá sao cho mọi trường con đều được đưa đúng vào vị trí đã xác định ● Vật chỉ thị: . Nhãn trường cũng có thể có sau nó một hoặc hai chữ số gọi là vật chỉ thị (indicator). Vật chỉ thị trình bày một cách tách biệt sự cần thiết cho một mục nhập nhan đề riêng trong mục lục và một số kí tự không phải tệp ở đầu của trường. Ví dụ: 245 14 $a The American heritage guide to antiques/$c Mary Durant Nhãn trường, mã trường con và vật chỉ thị được coi như xem là những mẫu ghi có nhãn (tagged record). Sự phát triển của mẫu ghi mục lục đọc máy cho phép ghi các dữ liệu thư mục và chuyển nó từ thư viện này tới thư viện khác đã tăng thêm khả năng phối hợp sử dụng thông tin và giảm bớt công tác biên soạn mục lục cho tài liệu nhập vào từng thư viện riêng. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 160 III.2.4 Trung tâm thư viện máy tính trực tuyến (Online Computer Library Center - OCLC) Được đặt tại Dublin, Ohio (Mỹ) Trung tâm thư viện máy tính trực tuyến (OCLC) là mạng máy tính hỗ trợ cho các hoạt động của thư viện, nó còn được gọi là công cụ thư mục tiện ích. Truy nhập nhiều hơn vào thế giới thông tin và giảm chi phí thông tin là mục tiêu của OCLC. Kiểu dịch vụ này được cung cấp từ những mạng máy tính hỗ trợ vận hành bao gồm các ứng dụng như: Các biểu ghi mục lục, sự truyền thông cho mượn giữa các thư viện, những dịch vụ xuất bản và in ấn... với số lượng thành viên lớn nhất trong các mạng lưới thư mục, đến năm 1991 OCLC đã có trên 17000 thư viện thành viên ở Mỹ và 51 quốc gia trên toàn thế giới. Hệ thống hỗ trợ một CSDL khá nổi tiếng là EPIC gồm trên 23 triệu sách, báo, tạp chí, phim, báo cáo, bản thảo trên cơ sở các mục lục kết hợp của các thư viện thành viên. CSDL này phát triển rất nhanh không chỉ hàng năm, hàng tháng mà hàng ngày. Trung bình mỗi năm có trên 2 triệu mẫu ghi được nhập thêm. Phần mềm EPIC cung cấp những thực đơn điều khiển mục nhập rất đơn giản mà bất kì ai chưa qua đào tạo đều có thể sử dụng dễ dàng. Ngoài những mẫu ghi của OCLC, EPIC còn cho phép tìm tài liệu trong nhiều CSDL khác. Vì vậy OCLC đã trở thành nguồn thông tin rộng lớn nhất thế giới. Hệ thống mục lục đọc máy (MARC) là thành phần trọng yếu nhất của hệ thống OCLC. Nó cũng bao gồm các mục lục gốc quan trọng của các thư viện thành viên và nắm tất cả các thư viện nhà nước chính. Hệ thống tra cứu của OCLC có thể truy nhập tới công trình thư mục khác tên là CSDL sách (The Book Database). CSDL này bao gồm trên 900 thư viện ở Anh, các nước châu Âu khác và Bắc Mỹ. Hệ thông tin thư mục hiện tại chuẩn này là công cụ chủ yếu dành cho cán bộ bổ sung của thư viện. Tuy nhiên cán bộ tra cứu và bạn đọc có thể sử dụng nó để tìm sách theo tên tác giả, tên sách và chủ đề... PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 161 OCLC còn được nối tới một số CSDL của người bán sản phẩm thông tin như Easy-Net (truy nhập tới 850 CSDL), Wilsonline, DIALOG và VU/Text. Người dùng tin nối vào hệ thống OCLC và dễ dàng sử dụng các CSDL đó theo chủ đề, từ khoá, tác giả... Có thể trực tiếp truy nhập vào OCLC hoặc thông qua hệ thống mạng lưới vùng rất phong phú như mạng thư viện OCLC của trường Đại học Tổng hợp New York hay mạng thông tin thư viện New England. Tất cả các mạng lưới này đều có nhiều dịch vụ thông tin rất đa dạng, một số phải trả tiền và một số được miễn phí. Phí tổn cho OCLC gồm chi phí cho việc trích dẫn trực tuyến, các thiết bị, việc tổ chức quản lí hệ thống và chi phí truyền thông. Nếu thông qua mạng lưới này, lệ phí hàng năm từ 500 USD tới 2000 USD . III.2.5 Mục lục truy nhập công cộng trực tuyến (Online Public Access Cataloging- OPAC) Các thư viện có thể chuyển đổi các phiếu mục lục truyền thống thành những mẫu ghi mục lục có thể đọc máy và nó sẽ trở thành một bộ phận của hệ thống mục lục tự động hoá (thường gọi là mục lục truy nhập công cộng trực tuyến- OPAC). Trên OPAC, bạn đọc thực hiện thao tác tìm theo nhiều dấu hiệu: Tên tác giả, nhan đề, kết hợp tên tác giả và nhan đề, chủ đề, từ khoá, ISBN, ISSN, số phân loại, call number ... Bạn đọc có thể giới hạn phạm vi tìm về ngôn ngữ, loại hình tài liệu, thời gian... III.2.6 Hệ thống trợ giúp tìm tin trực tuyến (Online) Ngày nay, bộ máy tra cứu trực tuyến không chỉ giới hạn trong phạm vi các mạng lưới hay tổ hợp thư viện của một quốc gia hay đa quốc gia mà đã trở thành mạng toàn cầu thông qua Internet. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 162 Internet là mạng truyền dữ liệu diện rộng bao trùm cả thế giới. Thoạt đầu đây là hệ thống mạng liên kết các trung tâm nghiên cứu của Bộ quốc phòng Mỹ. Dần dần nó mở rộng đến các cơ quan nghiên cứu và thông tin bên ngoài, trước tiên là các trường đại học. Các dịch vụ thương mại đã đẩy nhanh sự bành trướng của Internet ra khắp các giới, các ngành. Trong những năm 80, do khả năng tiềm tàng trong phục vụ nghiên cứu tổng hợp và kinh doanh, Internet đã vượt khỏi biên giới nước Mỹ sang nhiều nước công nghiệp khác. Đến năm 1993, các siêu mạng trong Internet tăng đến 25.000 mạng trên khắp thế giới với trên 40 triệu người sử dụng và hàng tháng tăng 15% số người gia nhập mạng. Internet có cấu trúc hình “mạng nhện” để khi một đường dây bị cắt thông tin vẫn không gián đoạn vì liên lạc sẽ tiến hành theo ngõ khác. Internet được coi là một xa lộ thông tin bao gồm mạng lưới các máy tính chủ được nối thông qua mạng điện thoại hay các kênh chuyên dùng. Tất cả mọi người tham gia mạng Internet đều có thể đổ dữ liệu riêng của mình vào mạng và truy nhập, tìm kiếm thông tin của mọi thành viên cũng như liên lạc trực tiếp với nhau. Các dịch vụ của Internet rất phong phú đa dạng gồm hàng chục loại trong đó một số loại có tác dụng rất lớn cho công tác tra cứu tìm tin. Trước tiên phải kể đến dịch vụ thư điện tử (E-Mail); dịch vụ truy nhập tự do, tìm kiếm các danh mục dữ liệu (Anonymous FPT); dịch vụ các thông tin cơ bản (Gopher Menu); dịch vụ tìm kiếm các CSDL được sắp xếp theo khoá (Wais Server); dịch vụ tra cứu tìm kiếm tạp chí tin tức (Electronic Magazines)... Nhiều hội nghị, hội thảo khoa học được truyền trực tiếp trên mạng. Các chuyên gia thông tin- thư viện trên toàn thế giới có thể vào Internet để theo dõi hội thảo về OCLC của Hiệp hội thư viện Mỹ tháng 2-1994 “The Future Is Now: The Changing Face of Technical Services”. Rất nhiều công ty đã giới thiệu các CSDL và nguồn tra cứu quan trọng trên mạng. Mỗi cơ sở dữ liệu này được truy nhập theo những cú pháp riêng của từng phần mềm ứng dụng. Người sử dụng mạng không những được giải đáp những câu hỏi mang tính chất tra cứu mà còn nhận được cả bản sao tài liệu gốc PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 163 nếu cần. Đó là dịch vụ xuất bản sách trên Internet. Thông qua một khu vực thông tin được gọi là trạm điều khiển (Cyber-Station), người dùng Internet có danh sách các thư viện và danh mục các loại sách. Họ có thể truy nhập tới một vài chương liên quan trong một cuốn sách cụ thể hoặc truy tìm tài liệu cho đề tài nghiên cứu của mình. Tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, khách hàng chủ yếu của Internet vẫn là các trung tâm nghiên cứu khoa học, các viện và trường đại học. Nhiều quốc gia ở châu Á, một mặt rất muốn khai thác, sử dụng kho tàng tri thức khổng lồ này, mặt khác rất e ngại tính chất “mở”, “không kiểm soát được” của nó sẽ là một mối đe doạ tiềm tàng đối với các giá trị văn hoá truyền thống và an ninh quốc gia của họ. Việt nam chưa chính thức ra nhập Internet, hiện nay chúng ta có một số mạng tin học nối với mạng Internet theo hình thức Ngoại tuyến (off-line) như Varenet, Tnet, Vestenet... dịch vụ chủ yếu là thư điện tử (Email) NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 164 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Phân tích các nguồn tài liệu tra cứu truyền thống (tài liệu in) 2. Phân tích đặc điểm các loại hình thư mục (in), so sánh chức năng và đối tượng phục vụ của các loại thư mục. 3. Trình bày cấu tạo, nguyên tắc sắp xếp của mục lục chữ cái, mục lục phân loại và mục lục chủ đề. 4. Giới thiệu các nguồn tra cứu điện tử: bách khoa toàn thư, nguồn tra cứu nhanh, từ điển, nguồn địa lý, chú dẫn và dạng thu nhỏ. 5. Trình bày đặc điểm, tác dụng của Mục lục đọc máy (MARC) và Trung tâm thư viện máy tính trực tuyến (OCLC). 6. Trình bày đặc điểm của Mục lục truy nhập công cộng trực tuyến (OPAC) và Hệ thống trợ giúp tìm tin trực tuyến PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 165 Tài liệu tham khảo I. TIẾNG VIỆT A. Tài liệu chỉ đạo 1. Các Mác. Toàn tập. T.12.-H.: Sự thật, 1962 2. V.I. Lênin .- Toàn tập. T.10.-H.: Sự thật, 1964 3. Hồ Chí Minh.- Con người xã hội chủ nghĩa.-H.: “ST”, 1961 4. Hồ Chí Minh.- Tuyển tập.- H.: Sự thật, 1960 5. Hồ Chí Minh.- Vấn đề học tập.-H.:”ST” 1971 6. Đảng CSVN.- Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ 4.-H.:Sự thật, 1977 7. Đảng CSVN.- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ III.-H.: “ST”, 1960 8. Đảng CSVN.- Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VII.-H.: Sự thật, 1993, tr.51-57 9. Đảng CSVN.- Nghị quyết số 37/NQ-TƯ ngày 20-4-1981 của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kĩ thuật.- H.: “ST”, 1981 10. Đảng CSVN.- Nghị quyết số 26/ NQ-TƯ ngày 30-3-1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới.-H.: “ST”, 1991 11. Quyết định số 178/CP ngày 16-9-1970 của Thường vụ Hội đồng chính phủ về công tác thư viện. 12. Chỉ thị số 95/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về công tác thông tin khoa học và công nghệ ngày 4-4-1991. NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 166 B. Sách 13. Cao Bạch Mai.- Giáo trình cơ sở thư mục học đại cương.- H.: ĐHTHHN, 1977 14. Dương Văn Khảm, Lê Văn Năng.- Tin học hoá công tác văn thư lưu trữ và thư viện.- H.: “ST”, 1995 15. Hoàng Sơn Cường.- Lịch sử sách.-H.: ĐHVH, 1981 16. La Phúc.- Hồi ức về Mác.-M.: Kniga, 1967 17. Lưu Quốc Quân.- Sơ giản lịch sử sách Trung quốc.- Bắc kinh: 1958 18. Nghiệp vụ xuất bản sách.-H.: Trường Tuyên huấn Trung ương, 1982 19. Nguyễn Huy Chương.- Đề xuất mạng máy tính (Network) trong thư viện đại học Việt nam .- Kỷ yếu Hội thảo khoa học, 1996, tr 27-33 20. Nguyễn Xuân Mạnh.- Phân loại ấn phẩm và mục lục phân loại.- H.: ĐHTHHN, 1979 21. Phạm Văn Rính.- Quy tắc miêu tả ấn phẩm và xây dựng mục lục thư viện.- H.: ĐHTHHN, 1976 22. Phan Văn.- Công tác độc giả.-H.:ĐH & THCN, 1978 23. Phan Văn.- Nội dung chương trình đào tạo cử nhân khoa học Thông tin - Tư liệu - Thư viện. Kỉ yếu Hội thảo khoa học, 1996, tr.69-72 24. Phan Văn.- Thông tin học.-H.: ĐHTH, 1988 25. Phan Văn.- Thư viện học đại cương.-H.: H.: Bộ ĐH & THCN, 1983 26. Tạ Bá Hưng.- Hệ thống thông tin khoa học kỹ thuật tự động hoá (Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ).-H.:1987 27. VESTENET.- Hướng dẫn khai thác CSDL. Quyển I/Cao Minh Kiểm chủ biên.-H.: 1995, 28. Xuân Thuỷ.- Tập thơ Bác ơi.-H.: Văn hoá, 1964 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 167 C. Tạp chí 29. Mạc Văn Trọng.- “Thư viện Quân đội trong những năm đổi mới”.- Tập san thư viện, số 4, 1994.- tr.5-8 30. Nguyễn Huy Chương.- “Ứng dụng tin học trong các thư viện đại học ở Mỹ”.- Tin học và đời sống, số 3+4, 1993.- tr.51-52 31. Nguyễn Minh Hiệp.- “Kỹ thuật mạng thư viện On-line ngày nay”.- Tạp chí Điện tử và tin học, số 3, 1995.- tr.3-6 32. Nguyễn Thu Thảo.- “Nghiên cứu xây dựng hệ thống tự động hoá biên soạn các mẫu tìm tin...”.- Tạp chí Thông tin và tư liệu, số 1, 1992.- tr.6 33. Nguyễn Tuấn Hoa.- “Các hệ thống tin học hiện đại”.- Tạp chí Điện tử và tin học, số 6, 1995.- tr.12-14 34. Nguyễn Tuấn Hoa.- “Internet ... “.- Tạp chí Điện tử và tin học, số 7, 1995.- tr.2-4 35. Popov G.A..- “Công nghệ thông tin hiện đại”.- Tạp chí Thư viện khoa học kỹ thuật, số 8-9, 1995.- tr.11-17 36. “Sự phát triển các mạng tin học và truyền dữ liệu ở Việt nam”.- Tạp chí Điện tử và tin học, số 11, 1995.- tr.47-48 37. Vũ Văn Sơn.- “Format và những mối quan hệ trong hoạt động thông tin - thư viện tự động hoá”. Tạp chí Thông tin và tư liệu, số 1, 1992.- tr.2-5 II. TIẾNG NƯỚC NGOÀI 38. Cohn, John M. et al. .- Cataloging and Classification: a Workbook.- New York: Marcel Dekker, 1980 39. Grogan, Deni .- Encyclopedias, Yearbooks, Directories and Statistical Sources .- Chicago American library Association, 1988 40. Grogan, Denis .- Bibliographies of Books.- Chicago: American Library Association, 1988 NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN VÀ THÔNG TIN 168 41. Harmon, Robert .- Elements of Bibliography Mentuchen, NJ: Scarecrow Press,1989 42. Katz, William A. .- Introduction to Reference Work. Volume I: Basic Information Sources.- New York: Mc Graw- Hill, 1992 43. Katz, William A. .- Introduction to Reference Work. Volume II: Reference Services and Reference Processes.- New York: Mc Graw-Hill, 1992 44. Martin, Susan .- “Information Technology and Libraries: Toward the Year 2000” .- College Research Libraries, July 1989, pp 397-405 45. Miller, William and Bonnie Gratch .- “Making Connections: Computerized Reference Services and People”.- Library Trends, Spring 1989, pp 387-401 46. Nguyen Huy Chuong .- Currently Status and Proposal for Information and Library Higher Training in Vietnam.- Paper, Boston, 1995 47. Nguyen Huy Chuong .- The Detailed Functional Specifications of the Center of Information and Library of the Hanoi National University .- Paper .- Boston, 1995 48. OCLC MARC Records: Structure of the OCLC Database Searching the Online Union Catalog.- Newton, MA: NELINET, 1995 49. OCLC Reference Services: EPIC and FirstSearch.- Newton, MA: NELINET, 1995 50. Philip Barker.- The Electronic library, Vol.12, No.4, 1994 51. Prospectus of University College London, School of library, Archive and Information studies. London, 1992 52.”Reference Librarian of the Future”.- Reference Service Review.- Spring 1991 53. Sabor, Josefa E. MÐthode d’Enseignement de la BibliothÐconomie.- P.: UNESCO, 1969 PGS. TS. PHAN VĂN THS. NGUYỄN HUY CHƯƠNG 169 54. Stabler, Karen .- “Introductory Training of Academic Reference Librarians: A Survey” .- RQ .- Spring 1987, pp 363-369 55. Steig, Margaret .- “Technology and the Concept of Reference”.- Library Journal .- April 15, 1990, pp 45-49 56. Stewart, Linda et al. .- Public Access CD-ROMs in Libraries: Case Studies .- Westport, CT: Meckler, 1990 57. Tenopir, Carol .- “The Impact of CD-ROM on Online”.- Library Journal .- February 1, 1991, pp 61-62 58. The Vietnam Journal of Electronies and Informatics.- No.7/1995, pp.2
| |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) | |
| |
| | | | NHẬP MÔN KHOA HỌC THƯ VIỆN ( TT) | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |